Giáo Phận Phan Thiết

CHÍNH TOÀ PHAN THIẾT

CHÍNH TOÀ PHAN THIẾT

About us

HẰNG TUẦN, BẤM VÀO MỤC AUDIO BÊN PHÍA TAY PHẢI CÁC BẠN ĐỂ NGHE VÀ HỌC HỎI KINH THÁNH

Thứ Bảy, 23 tháng 6, 2012

BẢN TIN HÀNG TUẦN SỐ 147 
24-6-2012-CHÚA NHẬT XII 
 LỄ SINH NHẬT THÁNH GIOAN TIỀN HÔ 

Lời Chúa: Lc 1, 57-66.80 
Khi đến ngày sinh, bà Êlisabeth sinh hạ một con trai. Láng giềng bà con nghe biết Chúa đã tỏ lòng nhân hậu lớn lao đối với bà liền đến chúc mừng bà. Ngày thứ tám, người ta đến làm phép cắt bì cho con trẻ, và họ lấy tên Dacaria của cha nó mà đặt cho nó. Nhưng bà mẹ đáp lại rằng: "Không được, nó sẽ gọi tên là Gioan". Họ bảo bà rằng: "Không ai trong họ hàng bà có tên đó". Và họ làm hiệu hỏi cha con trẻ muốn gọi tên gì. Ông xin một tấm bảng và viết: "Tên nó là Gioan". Và mọi người đều bỡ ngỡ. Bỗng chốc lưỡi ông mở ra, và ông liền chúc tụng Chúa. Mọi người lân cận đều kinh hãi. Và trên khắp miền núi xứ Giuđêa, người ta loan truyền mọi việc đó. Hết thảy những ai nghe biết đều để bụng nghĩ rằng: "Con trẻ này rồi sẽ nên thế nào? Vì quả thực, bàn tay Chúa đã ở với nó". Con trẻ lớn lên, mạnh mẽ trong lòng: nó ở trong hoang địa cho đến ngày tỏ mình ra cùng dân Israel. 


Suy Niệm: 
Quyền đặt tên nói lên quyền sở hữu. Cha mẹ đặt tên cho con cái, vì cha mẹ có quyền trên con cái. Tên Gioan được chính Thiên Chúa đặt, điều đó có nghĩa: Thiên Chúa dành riêng Gioan trong chương trình cứu độ của Người. Gioan được trao phó cho sứ mệnh, là tiền hô của Ðấng Cứu Thế. 


Cầu Nguyện: 
Lạy Cha, danh Kitô hữu quí trọng chúng con được mang, luôn nhắc nhở chúng con: Chúng con thuộc về Chúa Kitô, chúng con có vai trò quan trọng trong chương trình cứu thế. Trong sứ mệnh ngôn sứ, xin cho chúng con biết nói Lời Chúa. Trong sứ mệnh Tư Tế, xin cho chúng con quảng đại hiến dâng cho Thiên Chúa. Trong sứ mệnh Vương Ðế, xin giúp chúng con giữ được bản chất cao trọng, Chúa đã mặc cho chúng con. Thánh Gioan Tiền Hô đã chết để chu toàn sứ mệnh. Xin cho chúng con cũng kiên cường với sứ mệnh đến cùng. Amen. 


PHỤNG VỤ 

-         Thứ năm,
ngày 28/6:
Thánh Irênê,
giám mục. Lễ nhớ.

      Thứ sáu,
ngày 29/6:
Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ.
Lễ trọng.




TIN TỨC 
Lễ khấn tại Hội Dòng Mến Thánh Giá Phan Thiết 
Sáng sớm ngày 20.6.2012, ĐGM giáo phận đã chủ sự thánh lễ khấn dòng cho 49 Nữ tu tại nguyện đường dòng Mến Thánh Giá Phan Thiết, trong đó có 18 Nữ tu khấn trọn và 31 Nữ tu tiên khấn. Cùng đồng tế với ĐGM có 80 cha trong và ngòai giáo phận. Đông đảo tu sĩ nam nữ, thân và ân nhân các tân khấn sinh tham dự.    Xem hình

Lễ cung hiến nhà thờ Đức Bà 
Sáng ngày 22-6-2012, ĐGM giáo phận đã chủ tế thánh lễ cung hiến nhà thờ Đức Bà. Có 40 cha đồng tế, đông đảo chủng sinh của giáo phận vừa nghỉ hè, tu sĩ nam nữ và ân nhân. Từ một giáo họ thuộc giáo xứ Bình An, hôm nay đã được Đức Giám Mục nâng lên hàng giáo xứ với tên gọi giáo xứ Thanh Bình thuộc xã Tân Bình, Thị xã Lagi. Năm 1976, một số gia đình Công giáo từ hai Tỉnh Nghệ An và Quảng Bình đến đây lập nghiệp. Sau 36 năm bây giờ họ mới có được ngôi nhà thờ khang trang để cử hành phụng vụ.    Xem hình

THÔNG BÁO 

1. Mời Ban Thường Vụ, các Ủy Viên, Ban Đại Diện các giáo họ, các đoàn thể tham dự phiên họp vào lúc 8g30 Chúa Nhật 24-6-2012 tại nhà xứ. 
2. Chiều ngày 25-6-2012, hai cha Phụ Tá Phaolô Nguyễn Bá Huân và Gioan Viannê Dương Nguyên Kha sẽ đến phục vụ giáo xứ. 
3. Trưa ngày 28-6-2012, cha GB Nguyễn Trường Hải sẽ đi nhận xứ Đồng Tiến, hạt Hàm Tân, sau gần 2 năm phục vụ giáo xứ: 2010-2011: thầy Phó Tế, 2011-2012: cha Phụ Tá. 
4. Thứ sáu ngày 29/6 lễ hai thánh Phêrô và Phaolô: sẽ có 2 lễ trọng vào lúc 5g00 sáng và 5g30 chiều. Từ thứ hai đến sáng thứ bảy trong tuần này sẽ có giải tội ban sáng từ 4g30-6g00, ban chiều từ 5g00-6g30. 
5. Vào lúc 7g00 sáng thứ bảy ngày 30-6-2012, sẽ có rửa tội cha các trẻ sơ sinh. 
6. Vào lúc 8g30 Chúa Nhật ngày 1-7-2012 sẽ có nghi thức làm phép ghe. 
7. Giáo xứ cám ơn quý ân nhân ủng hộ: bà Bảy, giáo họ Máthêu Phượng: 10.000.000$, anh chị Minh+Tiên, gh Giuse Thị: 500.000$, 1 ân nhân gh Anrê Trông: 500.000$, 1 ân nhân gh Giuse Thị: 500.000$, 1 ân nhân gh Ximon Hòa: 3.000.000$, ghe anh Nguyễn Bá Hùng, gh Ximon Hòa: 4.300.000$.

Thứ Tư, 20 tháng 6, 2012

Xin hiệp lời cầu nguyện cho sức khoẻ của Đức Cha Nicôla

Sáng thứ hai ngày 18.6.2012, lúc 8g30, Đức Cha Giuse đã đến bệnh viện Tâm Phúc, Tp Phan Thiết để ban Bí tích Xức Dầu và trao Mình Thánh Chúa cho Đức Cha Nicôla.

Xem hình ảnh

Sáng thứ năm ngày 14.6.2012, Đức Cha Nicôla cảm thấy mệt và đau bụng nhiều nên Cha Quản Lý, các thầy, dì Ánh (y sĩ nhà hưu dưỡng linh mục) trong Toà Giám Mục và thân nhân của ngài đã đưa Ngài đi cấp cứu tại bệnh viện Tâm Phúc, Tp Phan Thiết. Tại đây, các bác sĩ chuẩn đoán ngài bị thoát vị bẹn (Thoát vị bẹn là tình trạng một tạng trong ổ bụng rời khỏi vị trí chui qua ống bẹn xuống bìu, là loại hay gặp trong các loại thoát vị thành bụng). Sau khi hội chẩn, các bác sĩ quyết định sẽ tiến hành phẫu thuật cho Đức Cha ngay buổi chiều cùng ngày.

Ca mổ bắt đầu lúc 13g30 và kéo dài 2 tiếng đồng hồ. Lúc 15g30, Đức Cha được đưa ra phòng hồi sức. Các thầy, các dì ở TGM và thân nhân của Đức Cha thay phiên nhau túc trực để chăm sóc Ngài. Cha Quản Lý thường xuyên lên xuống bệnh viện theo dõi tình hình sức khoẻ để thông báo cho Đức Cha Giuse và trấn an Đức Cha già. Một số linh mục và cộng đoàn dòng tu đã đến thăm Ngài.

Sáng ngày 18.6.2012, Đức Cha được chuyển xuống phòng chăm sóc đặc biệt (phòng 2, lầu 3) của bệnh viện Tâm Phúc. Đức Cha Giuse đã đến vấn an và ban Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân và trao Mình Thánh để xin ơn Chúa trợ giúp sức mạnh cho ngài. Mặc dù rất mệt và chưa hồi sức sau ca phẫu thuật, Đức Cha Nicôla đã cố gắng ngổi dậy tham dự các nghi thức và còn trò chuyện vui vẻ với Đức Cha Giuse, cha Quản lý và mọi người. Các thầy chăm sóc Đức Cha cho biết, ngài lúc nhớ lúc quên và sức khoẻ rất yếu. Sáng nay, Đức Cha già không nhận ra Cha Quản Lý và cô Út (em ruột của ngài), nhưng lại nhận ra Đức Cha Giuse ngay khi mới bước vào phòng. Lý giải cho việc này, Đức Cha Nicôla nói với các thầy rằng: “Vì cha rất thương Đức Cha Giuse, ngài là em Cha, lúc nào Cha cũng nhớ cầu nguyện cho ngài”.

Đức Cha Nicôla sẽ ở lại bệnh viện để bác sĩ điều trị và theo dõi sức khoẻ cho đến khi vết mổ ổn định rồi mới trở về Toà Giám Mục.

Xin Quý Cha, Quý Tu Sĩ và anh chị em giáo dân hiệp ý cầu nguyện cho Đức Cha Nicôla được bình an và sớm hồi phục sức khoẻ.

VP TGM Phan Thiết

Chủ Nhật, 17 tháng 6, 2012





BẢN TIN HÀNG TUẦN
Số 146
CHÚA NHẬT XI THƯỜNG NIÊN
17-6-2012
LỜI CHÚA: Mc 4, 26-34
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Nước Thiên Chúa giống như người kia đã gieo hạt xuống đất: người đó ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt giống cứ đâm mầm và mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết nữa. Ðất tự nó làm cây lúa mọc lên: trước hết thành cây, rồi đâm bông, rồi kết hạt. Và khi lúa chín, người ấy liền gặt vì đã đến mùa".
Người còn phán: "Chúng ta sẽ lấy gì mà hình dung nước Thiên Chúa? hay dùng dụ ngôn nào mà so sánh nước đó được? Nước đó giống như hạt cải, khi gieo xuống đất thì nhỏ bé nhất trong tất cả các hạt trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, nó mọc lên thành cây rau lớn nhất, và đâm những cành to, đến nỗi chim trời có thể tới núp bóng được". Người dùng nhiều dụ ngôn như thế mà rao giảng lời Chúa cho họ, tuỳ sức họ có thể hiểu được, và Người chỉ nói với họ bằng dụ ngôn, nhưng khi ở riêng với các môn đệ, Người giải thích tất cả cho các ông.
        Suy Niệm:
Hạt lúa tự nó có sức phát triển. Hạt cải nhỏ tí nhưng có thể trở thành cây lớn. Hạt lúa và hạt cải Ðức Giêsu dùng để nói lên sức mạnh của Nước Trời. Nước Trời chính là Ðức Giêsu, là lời của Ðức Giêsu. Khi con người đón nhận Ðức Giêsu, con người sẽ được biến đổi và sinh hoa kết quả dồi dào.
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, chúng con vẫn thường mang tâm trạng: Mình tài hèn sức mọn thì có giúp ích gì được cho đời? Qua lời Chúa dạy hôm nay, chúng con hiểu rằng chính Chúa sẽ làm cho cái nhỏ bé trở thành vĩ đại.
Xin cho chúng con biết hăng say gieo cho đời những lời hay ý đẹp; những việc làm trung nghĩa. Ðể sau này, những hạt giống nhỏ nhoi đó trở thành những cây xanh tươi mát đem lại cho con người niềm vui.
PHỤNG VỤ
- Thứ năm, ngày 21/6: Thánh Luy Gônzaga, tu sĩ. Lễ nhớ.









TIN TỨC
Giáo xứ Cà Tang chầu lượt
 CN 10-6-2012, lễ Mình Máu Chúa Kitô, là phiên chầu lượt của gx Cà Tang. Cha hạt trưởng Phan Thiết đã chủ sự giờ chầu chung với sự  tham dự của cha xứ Thánh Mẫu, Ma Lâm và hội viên Lòng Chúa Thương Xót trong hạt Phan Thiết, giáo xứ Chính Tòa có 40 tham dự viên.

Giáo họ La dày mừng lễ bổn mạng Antôn
Sáng ngày 13-5-2012, tại nhà thờ La Dày, cha hạt trưởng Phan Thiết đã chủ tế thánh lễ với 6 cha, mừng bổn mạng giáo họ và bổn mạng cha quản nhiệm  cha Antôn Nguyễn Bá Thiện. Đây là lần cuối cùng cha Antôn mừng lễ bổn mạng tại đây với giáo họ, và từ biệt giáo họ để ngày 29-6-2012 đi nhậm xứ Gio Linh, hạt Hàm tân, sau 3 năm 5 tháng phục vụ tại đây.

Đại hội Thiếu Nhi Thánh Thể
GP Phan Thiết lần thứ XII
Sáng ngày 13.6.2012, hơn 4.000 thiếu nhi trong giáo phận, quy tụ về tham dự Đại hội Thiếu Nhi Thánh Thể GP Phan Thiết lần thứ XII, tại Trung tâm Thánh Mẫu Tàpao. Cùng đồng tế với ĐGM giáo phận có 30 LM, và  với 17 Tân LM gp Phan Thiết (thụ phong ngày 24.5.2012).
Về tham dự Đại Hội, giáo xứ Chính Tòa có cha phụ tá, 15 anh chị Huynh Trưởng, và 35 em thiếu nhi. Sau thánh lễ, các em sốt sắng tham dự giờ Chầu Thánh Thể, và Đức Cha Giuse đã kiệu Thánh Thể đi một vòng từ bàn thờ đi theo hướng đường đi lên linh đài rồi xuống lại. Tất cả TNTT đều tham gia rước kiệu và trên miệng vang lời ca ngợi Chúa.

Cha PX Lê Quang Diễn về nhà hưu dưỡng.

    Sáng ngày 15-6-2012, cha hạt trưởng Phan Thiết cùng với giáo dân Vinh Phú đã đưa cha PX  về nhà hưu dưỡng của giáo phận, sau 6 năm phục vụ tại đây.
Giáo xứ Vinh Phú và Mũi Né đón cha xứ mới

Sáng ngày 15-6-2012, cha Tổng Đại Diện, cha hạt trưởng PhanThiết và một số cha đã cùng giáo dân Mũi Né đưa cha Phaolô Nguyễn Văn Ngụ, nguyên quản xứ Mũi Né 14 năm (1998-2012) về nhận xứ Vinh Phú. Buổi chiều cùng ngày cha Phêrô Nguyễn Hữu Duy về nhận xứ Mũi Né.

Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu,
bổn mạng giáo xứ Chính Tòa.

   Để dọn tâm hồn mừng lễ bổn mạng: chiều ngày 11-6-2012, cha Phêrô Nguyễn Hữu Duy, quản xứ Mũi Né đã dâng thánh lễ và giảng tĩnh tâm cho những người đã có gia đình, chiều ngày 14-6-2012, cha Nicôla Hùynh Đức, quản xứ Phú Hội đã dâng thánh lễ và giảng tĩnh tâm cho giới trẻ và thiếu nhi. Sáng ngày 15-6-2012, cha phụ tá dâng lễ   tại nhà thờ Chính Tòa, ban chiều cha chánh xứ dâng lễ lúc 5g30 tại nhà thờ Chính Tòa, cha phụ tá  tại Tiến Thành lúc 4g00.
  
Lược sử   giáo xứ Chính Tòa Phan Thiết  
   
 Vào khỏang 1875-1880, có một vị thừa sai người Pháp là cha Archimbaud Đức, cùng với một số giáo dân gốc Bình Định và Quảng Bình đến đến Phan Thiết sinh sống. Thọat đầu cố Đức và giáo dân dựng lên một ngôi nhà nguyện thô sơ, mái lá vách tre, trên một khu đất nhỏ thuộc làng Lạc Đạo. Năm 1890, cha Labiausse Sáng, chánh xứ 1905-1908, mất ngày 15-6-1941, cho xây dựng thánh đường bằng gạch lợp ngói, rộng rãi hơn, vì số giáo dân ngày một tăng thêm. Tiếp theo, cố Mossard,  Masseron Ròng, chánh xứ 1908-1911, xây nhà xứ làm nơi ở cho các linh mục thừa sai Paris. Cha P. Barré Thiên, chánh xứ 1920-1922, cha Ximon Chánh phụ tá 1919-1922.   Thời cố Báu (Brugidou, từ trần 27-6-1962, ngày nay còn ngôi mộ của ngài trong sân nhà thờ) làm chính xứ, có cha Phaolô Võ Văn Chánh (sinh 1924 tại Thị Nghè, linh mục 1951 tại Sài Gòn, từ trần 26-7-2007), phụ tá từ năm 1951. Cha Giuse Nguyễn Minh Chiếu là linh mục Việt Nam đầu tiên làm chính xứ.

      Từ 1880 đến 1907 giáo xứ  thuộc giáo phận Đông Đàng Trong tức là Quy Nhơn
Trong giai đọan này có 02 cha thuộc hội Thừa Sai Paris  phục vụ.

    Từ 1907 cho đến 1957, giáo xứ thuộc giáo phận Tây Đàng Trong tức là Sài Gòn
Trong giai đọan này có 3 cha thuộc hội Thừa Sai Paris và 1 cha Việt Nam  làm chánh xứ, 1 cha Việt Nam phụ tá.
Thời cố Thommeret Thơm, ( Chánh xứ 1958-1960, từ trần  31-8-1985 tại Pháp ) làm chính xứ, khỏang thập niên 1950, có cha Lui Lê Văn Sinh (sinh 1931 tại Chợ Mới, Nha Trang, linh mục 1959, phụ tá giáo xứ 1959-1963, từ trần 03-8-04 tại Nha Trang). Các cha cho mở rộng nhà thờ, xây nhà xứ mới. Năm 1960 cố Victor Caillon, tên Việt là cha Năng, (sinh 1906 tại Pháp, linh mục 1932, từ trần 15-4-1983 tại Pháp,), là vị thừa sai cuối cùng làm chính xứ đến 1968. Thời cha Năng có các cha : Phaolô Trần Sơn Bích (sinh 1928 tại Thanh Hóa, linh mục 1957 tại Pháp, từ trần ngày 15-10-2011 tại Sài Gòn), phụ tá từ năm 1963-1964, cha Giuse Nguyễn Thanh Vân (sinh 1932 tại Thanh Hóa, linh mục 1963, tử nạn vì bom tại nhà xứ Gia An, ngày 28-01-1973), phụ tá từ năm 1963-1967, cha Antôn Vũ Ngọc Đăng (sinh 1937 tại Thanh Hóa, linh mục 1967 tại Huế, phụ tá từ năm 1967-1970, hiện là Quản xứ Thánh Mẫu, Phan Thiết). Năm 1968 Cha Phêrô Maria Phạm Dương Thái ( sinh 1931 tại, Hà Tĩnh, linh mục 1963 tại Nha Trang, từ trần ngày 29-6-1992, an táng tại giáo họ Lộc Giang, giáo xứ tân Hội, Hà Tĩnh) về làm chinh xứ, các cha Phêrô Bùi Duy Nghiệp (sinh 1941 tại Nha Trang, linh mục 1969 tại Đà Nẵng, đang ở Pháp), phụ tá từ 1969-1970, cha F. Atxidi Nguyễn Cao Cầu (sinh 1942, tại Tầm Hưng, linh mục 1970 tại Tha La, Tây Ninh, từ trần ngày 2-6-1991 tại Tầm Hưng), phụ tá từ 1970-1972.
Năm 1972 cha Giuse Nguyễn Viết Cư ( sinh 1917 tại Hòa Ninh, Quảng Bình, linh mục 1950 tại Huế), tốt nghiệp tiến sĩ giáo luật và dân luật ở Rôma, về làm chính xứ. Cha Gioan Nguyễn Văn Hảo (sinh 1944 tại Quảng Bình, linh mục 1972 tại Nha Trang, hiện là quản xứ Hồ Thắng), phụ tá từ năm 1972-1974, cha Augútinô Nguyễn Văn Lạc (sinh 1947 tại Tầm Hưng, linh mục 1974 tại Nha Trang, hiện là chính xứ Phan Rí Cửa, hạt trưởng hạt Băc Tuy) phụ tá từ năm 1974-1975. Cha FX Đinh Tiên Đường (sinh 1945 tại nghệ An, linh mục 1975, hiện là quản xứ Hiệp Đức, Hạt Trưởng hạt Hàm Thuận Nam), phụ tá từ năm 1975-1986.

Từ 1957 đến 1975, giáo xứ thuộc giáo phận Nha Trang.
Trong giai đọan này có 2 cha thuộc hội Thừa Sai Paris và 2 cha Việt Nam  làm chánh xứ, 8 cha VN phụ tá.
Từ 1975 đến nay giáo xứ thuộc giáo phận Phan Thiết
Ngày 30-01-1975, tòa thánh thiết lập địa phận Phan Thiết, nhà thờ giáo xứ trở thành nhà thờ Chính Tòa của giáo phận mới. Cha chính xứ đương nhiệm Giuse Nguyễn Viết Cư được bổ nhiệm làm linh mục Tổng Đại Diện tiên khởi của tân giáo phận.
Ngày 20-5-1986, cha Giuse Nguyễn Viết Cư từ trần tại nhà xứ Chính Tòa, hưởng thọ 69 tuổi. Hài cốt được cải táng về trong khuôn viên nhà thờ. Cha phụ tá FX Đinh Tiên Đường làm quản nhiệm giáo xứ.
Ngày 14-02-1988, cha Giuse Nguyễn Tiến Huynh (sinh 1930 tại Hòa Ninh, Quảng Bình, linh mục 1958 tại Pháp), tốt nghiệp tiến sĩ tâm lý ở Pháp, về nhận nhiệm vụ chính xứ. Ngày 3-4-1992 cha cùng với giáo phận và giáo xứ khởi công xây nhà thờ mới đến 15-8-1993 cung hiến. Trong thời gian này cha Huynh cũng xây thêm nhà giáo lý. Ngày 8-2-1997 cha Huynh được thuyên chuyển đi làm quản xứ Vinh Phú, rồi Rạng. Ngài về nhà hưu dưỡng linh mục Phan Thiết tháng 7-2008 và từ trần tại đây ngày 17-8-2008. Cha Phêrô Hòang Văn Thinh (sinh 1949 tại Nghệ An, linh mục 1996 tại Phan Thiết, hiện là quản xứ giáo xứ Tân Lập, hạt Hàm Tân) phụ tá từ 1996-1998.
Ngày 25-02-1997 cha GB Trương Văn Hiếu (sinh 1922 tại Nghệ An, linh mục 1956 tại Sài Gòn) làm chính xứ đến tháng 10 năm 2005 về nhà hưu dưỡng giáo phận Phan Thiết, từ trần ngày 21-5-2011. Cha FX Nguyễn Quang Minh (sinh 1966 tại Thanh Hải, Phan Thiết, linh mục 1998, hiện là quản xứ Tánh Linh), phụ tá từ năm 1998-2005, cha Giacôbê Tạ Chúc (sinh 1968 tại Quảng Trị, linh mục 2004 tại Phan Thiết) phụ tá từ 2005-2006, hiện là quản xứ Gia An.
Ngày 18-10-2005, cha Giuse Hồ Sĩ Hữu (sinh 1949 tại Nghệ An, linh mục 1991 tại Phan Thiết), mới du học ở Pháp về, được bổ nhiệm làm chính xứ, và từ mùa hè 2007, kiêm quyền Hạt Trưởng giáo hạt Phan Thiết. Ngày 24-2-2008 cha Hữu được thuyên chuyển về làm Chưởng Ấn kiêm Chánh Văn Phòng tòa giám mục Phan Thiết. Cha Hữu đã đại tu nhà xứ, làm hệ thống đường sạch đẹp trong giáo họ Anrê Trông (Bình Hải 1), lắp đặt nhà máy sản xuất nước sạch cho giáo xứ để có ngân khỏan phục vụ các công việc của giáo xứ và các công tác từ thiện, đóng trần cung thánh. Cha Micae Cù Đức Trí (sinh 1972 tại Thanh Xuân, linh mục 2006 tại Phan Thiết) phụ tá từ 2006 đến 2009.
Ngày 27-02-2008 cha FX Phạm Quyền (sinh 1943 tại Hà Tĩnh, linh mục 1972 tại Đà Lạt) được thuyên chuyển về làm chánh xứ và Hạt Trưởng Phan Thiết. Sau 3 năm phụ tá ngày 11-12-2009 cha Trí được bổ nhiệm làm chánh xứ tiên khởi giáo xứ Vũ Hòa, hạt Đức tánh. Giữa tháng 12-2009, cha Phêrô Đào Thanh Khánh (sinh 1975 tại Phan Thiết, linh mục 2009 tại Phan Thiết) về làm phụ tá đến tháng 6-2011, đi du học tại Áo. Cha GB Nguyễn Trường Hải, sinh 1970 tại Tân Lý, Linh mục 2011 tại Phan Thiết, Phụ tá từ tháng 8-2011 đến tháng 6 -2012. Hiện là chánh xứ Đồng Tiến.
Ngày 18-11-2007, UBND tỉnh Bình Thuận có văn bản trả không giải quyết  các đơn khiếu nại trong năm 2007 do cha Hồ Sĩ Hữu  yêu cầu giao lại đất trường Anna cũ. Tháng 4-2008, cha chánh xứ Phạm Quyền tiếp tục làm đơn xin giao lại đất trường Anna. Tháng 5-2009 UBND tỉnh Bình Thuận đã ký quyết định giao lại đất trường Anna. Tháng 6-2011 Đức Giám Mục Giuse Vũ Duy Thống ký quyết định phân chia ranh giới giữa giáo xứ Chính Tòa và chủng viện Nicôla. Sau nhiều tháng họp bàn kỹ lưỡng với HĐMVGX, ngày 15-10-2011 cha chánh xứ Phạm Quyền đã nạp đơn xin xây dựng nhà Mục Vụ. Đầu năm 2012 Tỉnh Bình Thuận đã cấp giấy chứng nhận  cho nhà thờ Chính Tòa được xử dụng khu đất với diện tích 6.395m2 ,  cấp giấy phép xây dựng nhà Mục Vụ : 1 trệt và 1 lầu với diện tích xây dựng 1.600m2 . Ngày 14-5-2012 Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống đã chủ tế thánh lễ đồng tế với cha Tổng Đại Diện, 5 cha hạt trưởng, môt số cha trong hạt Phan Thiết cùng các cha trước đây đã phục vụ giáo xứ Chính Tòa, làm phép viên đá cho nhà Mục Vụ. Ngày 16-5-2012 Cty Xây Dựng 386 khởi công đào móng xây dựng.
Giáo xứ Chinh Tòa Phan Thiết gồm các phường: Lạc Đạo, Đức Nghĩa, Đức Long, xã Tiến Lợi và xã Tiến Thành cùng khu phố 1,2,3 phường Đức Thắng, TP Phan Thiết. Nhà thờ Chính Tòa tọa lạc tại số 587 đường Trần Hưng Đạo, nhà xứ tại 2b đường Hàn Thuyên, P. Lạc Đạo.
Năm 2009 chia lại ranh giới các giáo họ Thánh Đường và Tam Hiệp, nhập hai giáo họ Đức Long và Tiến Lợi lại thành một giáo họ. Mỗi giáo họ nhận một vị thánh Tử Đạo VN làm bổn mạng để mừng kính hàng năm. Cuối năm 2009 chỉnh trang lại cung thánh.
Giáo xứ  có 6 giáo họ:
1. Giáo họ Máthêu Lê Văn Gẫm, xã Tiến Thành : 28 gia đình, 118 giáo dân. Lễ kính thánh bổn mạng ngày 11-5.
2. Giáo họ Máthêu Nguyễn Văn Phượng : Kp 4 và 6 P. Lạc Đạo, trong khung đường Trần Hưng Đạo - Ngư Ông - Pasteur - Ngô Sĩ Liên : 104 gia đình, 383 giáo dân. Lễ kính thánh bổn mạng ngày 26-5.
3. Giáo họ Giuse Lê Đăng Thị : P. Đức Nghĩa, Kp 1,2,3 P. Lạc Đạo, Kp 1,2,3 P. Đức Thắng : 151 gia đình, 614 giáo dân. Lễ kính thánh bổn mạng ngày 24-10.
4. Giáo họ Anrê Nguyễn Kim Thông : P. Đức Long và xã Tiến Lợi, 193 gia đình, 651 giáo dân. Lễ kính thánh bổn mạng 15-7.
5. Giáo họ Anrê Trần Văn Trông: Kp 5 P. Lạc Đạo, trong khung đường Hàn Thuyên - Ngư Ông - Pasteur: 261 gia đình, 1.038 giáo dân. Lễ kính thánh bổn mạng ngày 28-11.
6. Giáo họ Ximon Phan Đắc Hòa : Kp 5 và 7 P. Lạc Đạo, trong khung đường Hàn Thuyên - Ngư Ông - Ngô Sĩ Liên : 294 gia đình, 1.088 giáo dân. Lễ kính thánh bổn mạng ngày 10-12.
Từ khi thành lập giáo phận Phan Thiết đến nay, có 5 cha chánh xứ, 7 cha phụ tá phục vụ.
Hiện nay giáo xứ có 1.046 gia đình với 4.268 giáo dân trong 5 giáo họ: Ximon Phan Đắc Hòa (Bình Hải 2): 1.261 giáo dân; Anrê Trần Văn Trông (Bình Hải 1): 1.058 giáo dân; Anrê Nguyễn Kim Thông (Đức Tiến): 749 giáo dân; Giuse Lê Đăng Thị (Tam Hiệp): 591 giáo dân; Máthêu Nguyễn Văn Phượng (Thánh Đường): 472 giáo dân; Tiến Thành : 137 giáo dân.
Từ năm 1950 giáo xứ có các nữ tu thuộc các hội dòng đến phục vụ: Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm: 1950-1960, Dòng Đức Bà Truyền Giáo: 1960-1970, Dòng  Mến Thánh Gía Nha Trang từ 1970 đến nay.
Trải qua 122 năm, giáo xứ có 14 cha chánh xứ, 17 cha phụ tá đến phục vụ. Trong số đó, 12 cha chánh xứ và  5 cha phụ tá đã từ trần.

1.      Cha Giuse Nguyễn Thanh Vân: phụ tá 1963-1967,
từ trần ngày 28-01-1973, an táng tại khuôn viên nhà thờ giáo  xứ Gia An.

2.      Cha Lui Lê Văn Sinh: phụ tá 1959-1963,từ trần  ngày 3-4-2004, an táng  tại Nha Trang.

3.      Cha Vícto Caillon Năng, chánh xứ 1960-1968,
từ trần ngày 15-4-1983 tại Pháp.

4.      Cha Giuse Nguyễn Viết Cư, chánh xứ 1972-1986, từ trần ngày 20-5-1986 tại giáo  xứ Chính Tòa.
Mộ phần trong khuôn viên nhà thờ Chính Tòa.
5.    Cha GB Trương Văn Hiếu, chánh xứ 1997-2005, từ trần ngày 21-5-2011, an táng tại nghĩa trang linh mục ở giáo xứ Vinh An.

6.      Cha F.A Nguyễn Cao Cầu, phụ tá 1970-1972, từ trần ngày 02-6-1991,
an táng  tại nghĩa trang giáo xứ Tầm Hưng.

7.      Cha Xiprianô Brugidou Báu, chánh xứ 1941-1957,
từ trần ngày 27-6-1962.  Mộ phần trong khuôn viên nhà thờ Chính Tòa.

8.      Cha P.M. Phạm Dương Thái, chánh xứ 1968-1972,  từ trần ngày 29-6-1992,   an táng  tại giáo họ
Lộc Giang, giáo xứ Tân Hội, Hà Tĩnh.

9.      Cha Phaolô Võ Văn Chánh, phụ tá 1953-1957,
từ trần ngày 26-7-2007, an táng  tại Mỹ Tho.


10. Cha Giuse Nguyễn Tiến Huynh, chánh xứ 1988-1997, từ trần,
ngày 17-8-2008, an táng tại nghĩa trang linh mục  ở giáo xứ Vinh An.
11. Cha Roger Thommeret Thơm, chánh xứ 1958-1960,
từ trần ngày 31-8-1985 tại Pháp.
12. Cha Phaolô Trần Sơn Bích, phụ tá 1963-1964,
từ trần ngày 15-10-2011 tại Sài Gòn, an táng tại Nha Trang.

Giáo xứ đóng góp cho giáo hội 02 Linh mục: một cha đang phục vụ tại tổng giáo phận Chicago bên Mỹ, một cha tại giáo phận Phan Thiết, 01 chủng sinh, 10 nữ tu.
Giáo xứ tri ân các linh mục, tu sĩ, quý chức trong HĐMV giáo xứ, giáo họ, các đòan thể, các ân nhân đã dày công xây dựng và phục vụ.

THÔNG BÁO
Giáo xứ cám ơn quý ân nhân: ghe anh Bùi Văn Đức, gh Anrê Trông: 1.000.000$; nhóm Lòng Chúa Thương Xót giáo xứ chính tòa: 1.000.000$; 2  ân nhân: 1.000.000$, chị Lê Thị Ngọc Hương, con ô. Quý: 1.000.000$, anh chị Văn+Mai, Cty Xây Dựng 368, gh Giuse Thị: 8.000.000$,


Chúc Mừng Ngày Của Cha (Father’s Day)

 Ngày Của Cha là một lễ được dùng để tôn vinh những người làm cha, tôn vinh cương vị làm cha, mối quan hệ với người cha và ảnh hưởng của người cha trong xã hội. Ngày này được mừng vào Chúa Nhật thứ ba của tháng 6 tại nhiều quốc gia và có thể rơi vào những ngày khác ở một số nơi.

Nhân “Ngày của Cha”, kính gởi đến Quý Vị nhạc phẩm HỘP QUÀ TẶNG CHA

Tác giả: Thông Vi Vu, cảm tác từ câu chuyện  “Chiếc hộp tình yêu là món quà con dành tặng bố”. Ca sĩ trình bày: Đông Nghi

  .HỘP QUÀ
>

HỘP QUÀ TẶNG CHA (Nhạc sĩ: Thông Vi Vu)

1.Một quà con dành riêng để tặng cha, là hộp quà mang trọn tình mến thiết tha. Hộp không kiểu dáng mượt mà, và trong chẳng có vật lạ. vỏn vẹn hàng chữ “Lòng con kính dâng về cha”.

Nhận được quà cha liền theo hỏi nhỏ con: Hộp đựng quà sao mà lại thấy rỗng không. Và con chỉ đáp nhẹ nhàng, hộp kia được nén đầy tràn muôn ngàn nụ hôn từ trong trái tim nồng nàn.

ĐK: Con yêu cha hôm qua hôm nay và ngày mai đang tới. Con yêu cha như cha yêu con tình mến sẽ không phai. Xin một đời theo bước chẳng rời, để dù đi xa con vẫn có cha bên đời.

2.Và hộp quà đã được riêng để một bên, ngày lại ngày rơi dần vào góc lãng quên. Đời đang hạnh phúc bình thường, một tai nạn giữa nẻo đời, đã quật con xuống làm cha quắt quay sầu thương.

Chiều lại chiều sau nhiều công việc ở xa, trở về nhà cha ngồi trầm lắng phút qua. Cầm tay mở nắp hộp quà, đọc lên hàng chữ nhạt nhòa, bao là thương mến đậm lên chuỗi hôn ngọt ngào.

 Câu chuyện:
Chiếc hộp tình yêu là món quà con dành tặng bố

Chiếc hộp rỗng chứa đầy những nụ hôn của cô con gái chính là món quà vô cùng quý giá mà người cha luôn giữ bên mình. Trong cuộc sống, đôi khi chúng ta nhận được những món quà quý giá như vậy nhưng lại vô tình bỏ qua.

Có một người cha nghèo đã quở phạt đứa con gái 3 tuổi của mình vì tội lãng phí cả một cuộn giấy gói quà màu vàng. Tiền bạc eo hẹp, người cha nổi giận khi đứa bé cắt cuộn giấy quý ra thành từng mảnh nhỏ trang trí một cái hộp giấy. Sáng sớm hôm sau, đứa con gái nhỏ vẫn mang hộp quà đến nói với cha: "Con tặng bố!". Người cha cảm thấy bối rối vì cơn giận dữ của mình tối hôm trước nhưng rồi cơn giận dữ lại bùng lên khi ông mở ra, thấy cái hộp trống rỗng.

Ông mắng con gái. Đứa con gái nhỏ ngước nhìn cha, nước mắt rưng rưng: "Bố ơi, đó đâu phải là cái hộp rỗng, con đã thổi đầy những nụ hôn vào hộp để tặng bố mà!". Người cha giật mình. Ông vòng tay ôm lấy đứa con gái nhỏ cầu xin con tha thứ.

Đứa con gái nhỏ không bao lâu sau đã qua đời trong một vụ tai nạn. Nhiều năm sau, người cha vẫn khư khư giữ cái hộp giấy bên mình, mỗi khi gặp chuyện nản lòng, ông lấy ra một nụ hôn tưởng tượng và nghĩ đến tình yêu mà đứa con gái bé bỏng của ông đã thổi vào chiếc hộp.

Trong cuộc sống, chúng ta đã và sẽ nhận được những chiếc hộp quý giá chứa đầy tình yêu và những nụ hôn vô tư từ con cái của chúng ta, từ bạn bè, gia đình. Trên đời này, chúng ta không thể có được tài sản nào quý giá hơn những chiếc hộp chứa đầy tình yêu vô tư như thế.

Thứ Tư, 13 tháng 6, 2012


BẢN TIN HÀNG TUẦN SỐ 145
CHÚA NHẬT LỄ MÌNH VÀ MÁU THÁNH CHÚA KITÔ
10-6-2012
LỜI CHÚA: Mc 14, 12-16. 22-26
Ngày thứ nhất trong tuần lễ ăn bánh không men là ngày giết chiên mừng lễ Vượt Qua, các môn đệ thưa Chúa Giêsu rằng: "Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua tại đâu?" Người liền sai hai môn đệ đi và dặn rằng: "Các con hãy vào thành, và nếu gặp một người mang vò nước thì hãy đi theo người đó. Hễ người ấy vào nhà nào thì các con hãy nói với chủ nhà rằng: Thầy sai chúng tôi hỏi: 'Căn phòng Ta sẽ ăn Lễ Vượt Qua với các môn đệ ở đâu?' Và chủ nhà sẽ chỉ cho các con một căn phòng rộng rãi dọn sẵn sàng và các con hãy sửa soạn cho chúng ta ở đó". Hai môn đệ đi vào thành và thấy mọi sự như Người đã bảo và hai ông dọn Lễ Vượt Qua.
Ðang khi họ ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: "Các con hãy cầm lấy, này là Mình Ta". Rồi Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các ông và mọi người đều uống. Và Người bảo các ông: "Này là Máu Ta, Máu tân ước sẽ đổ ra cho nhiều người. Ta bảo thật các con: Ta sẽ chẳng còn uống rượu nho này nữa cho đến ngày Ta sẽ uống rượu mới trong nước Thiên Chúa". Sau khi hát Thánh Vịnh, Thầy trò đi lên núi Cây Dầu.
Suy Niệm:
Ðức Giêsu yêu thương chúng ta, Ngài không chỉ ban cơm bánh, tiện nghi, sức khỏe... Một cuộc sống mau qua đời này cho chúng ta: mà còn dành cho chúng ta một nguồn ân sủng vô tận, đặc biệt nhất, chính là Mình Máu Ngài làm lương thực nuôi linh hồn ta. Ngài đã yêu và yêu đến cùng. Người Do thái không hiểu Ngài, cũng không hiểu được Lời Ngài, vì thế đã đưa đến mâu thuẫn.
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con siêng năng chạy đến với Chúa qua thánh lễ qua Bí Tích Thánh Thể. Xin cho chúng con cảm nghiệm được tình yêu bao la của Chúa đã tự hiến vì chúng con. Ðể từ đó chúng con biết kín múc tình yêu của Chúa, và biết trao ban cho tha nhân. Amen.


TIN GIÁO PHẬN :

Lễ Mãn Nhiệm của Cha Pet. Phạm Tiến Hành và Cha Philipphê Lê Trọng Phan
Giáo hạt Hàm Tân từ giã hai cha nghỉ hưu
Sáng ngày 7-6-2012, tại nhà thờ Vinh Tân, ĐGM giáo phận đã chủ tế thánh lễ tạ ơn cầu nguyện cho 2 cha Phêrô Phạm Tiến Hành và cha Philiphê Lê Trọng Phan về nghỉ hưu. Cùng đồng tế có cha Tổng Đại Diện, các cha hạt trưởng: Phan Thiết, Đức Tánh, Hàm Thuận Nam, viên phụ đan viện Châu Thủy và 45 cha trong giáo phận. Tham dự thánh lễ có một số tu sĩ nam nữ, HĐMV, ban đại diện các đòan thể của  các giáo xứ thuộc hạt Hàm Tân. Hai cha đã phục vụ tại hạt Hàm Tân từ 1975 tới nay. Cha Hành nay đã 82t, là hạt trưởng Hàm Tân 2002-2012 và quản xứ Tân Lập 1999-2012. Cha Phan nay đã 78t,  là quản xứ Gio Linh từ 1994 đến 2012. Hai cha sẽ về  nghỉ hưu tại nhà hưu dưỡng các linh mục của giáo phận Phan Thiết vào cuối tháng 6 này.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Các cha giáo hạt Phan Thiết từ giã cha PX Lê Quang Diễn
Sáng ngày 5-6-2012 các cha trong hạt Phan Thiết đã tham dự tĩnh tâm tháng  tại gx Vinh Phú với sự hiện diện của cha Tổng Đại Diện cùng cha hạt trưởng Phan Thiết để từ giã cha PX Lê Quang Diễn về nghỉ hưu. Cha Diễn  đã phục vụ gx Vinh Phú từ năm 2006-2012, nay đã 80t,  giữa tháng 6 này sẽ về nghỉ hưu tại nhà hưu dưỡng các linh mục của giáo phận Phan Thiết.
         Giáo xứ Long Hà khánh thành nhà giáo lý
 Sáng ngày 05.06.2012, ĐGM giáo phận đã đến dâng Thánh lễ Tạ ơn và cắt băng khánh thành nhà Giáo lý mới của giáo xứ Long Hà, hạt Bắc Tuy.Hiện diện trong thánh lễ có cha Hạt trưởng Bắc Tuy và Đức Tánh, Quý Cha, Quý Tu Sĩ, Quý Hội Đồng các Giáo Xứ,  Quý Ân - Thân nhân và Quý khách. Nhà Giáo Lý được khởi công xây dựng vào cuối tháng 10.2011 với tổng diện tích 250m².   
Giáo hạt Hàm Thuận Nam từ giã cha Giacôbê Nguyễn Minh Luận
Ngày 6-6-2012, các cha trong hạt Hàm Thuận Nam đã tham dự tĩnh tâm tháng tại gx Ba Bàu với sự hiện diện của cha Tổng Đại Diện để từ giã cha Luận,  sau hơn 2 năm phục vụ tại đây. Ngày 26-6-2012 cha Luận sẽ đi nhậm xứ Thánh Tâm, hạt Đức Tánh.
Giáo hạt Đức Tánh từ giã cha Phêrô Hoàng Văn Thinh
Ngày 8-6-2012 các cha hạt Đức Tánh đã tham dự tĩnh tâm tháng tại gx Thánh Tâm với sự hiện diện của cha Tổng Đại Diện để từ giã cha Phêrô Hòang Văn Thinh sau 14 năm phục vụ tại đây:1998-2012. Cha Thinh trước đây là phụ tá tại gx Chính Tòa từ 1996-1998, thời cha Huynh và cha Hiếu. Ngày 26-6-2012 cha Thinh sẽ đi nhậm xứ Tân Lập, hạt Hàm Tân.

Nhà máy nước cho giáo họ La Dày
 Sáng Chúa Nhật 03.06.2012, Ban Caritas Phan Thiết và thầy Trần Khắc Bá, đại diện cơ quan tài trợ là Dòng Tên – Grouppo India đã chính thức bàn giao công trình nhà máy nước uống tinh khiết cho linh mục Antôn Nguyễn Bá Thiện, đặc trách Giáo họ La Dày – Gp Phan Thiết. Đây là dự án giúp cho người dân nghèo vùng núi Đami đất bị nhiễm phèn có nước sạch để uống. Cha Thiện sẽ rời LaDày đi nhậm xứ Gio Linh, hạt Hàm Tân vào ngày 29-6-2012.
------------------------------------------------------------------------------------------------------------
TIN GIÁO HỘI HOÀN VŨ
Lễ cải táng ĐHY PX Nguyễn Văn Thuận
10 năm sau khi được an táng tại nghĩa trang Verano, di hài ĐHY Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận đã được cải táng về Nhà thờ hiệu tòa của ngài, Đức Mẹ Scala, ở trung tâm Roma sáng ngày 8-6-2012.
Trong những năm qua, Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình, đã mở án xin phong chân phước cho ĐHY Nguyễn Văn Thuận, đồng thời cũng xúc tiến việc xin cải táng ĐHY về nhà thờ hiệu tòa của ngài ở trung tâm Roma.
Lễ cải táng diễn ra dưới hình thức một buổi phụng vụ Lời Chúa, với bài đọc sách Huấn Ca, đáp ca, lời nguyện. Khi linh cữu được đưa tới trước bàn thờ, biên bản cuộc cải táng đã được các chức sắc tòa án của Tòa Giám Quản Roma tuyên đọc, rồi linh cữu Đức Cố Hồng Y bọc Inoxidable, có cột giây đỏ gắn triện si, được đặt dưới bàn thờ Thánh Đa Minh và thánh Nữ Catarina, là bàn thờ thứ hai ở bên phải vừa khi bước vào thánh đường.
PHỤNG VỤ
- Thứ hai, ngày 11/6: Thánh Barnaba, tông đồ, lễ nhớ.
- Thứ tư, ngày 13/6: Thánh Antôn Pađôva, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh, lễ nhớ.
- Thứ sáu, ngày 15/6: Thánh Tâm Chúa Giêsu, lễ trọng: ngày thế giới xin ơn thánh hóa các linh mục,Bổn mạng giáo xứ Chính Tòa.
- Thứ bảy, ngày 16/6: Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ, lễ nhớ.

Vui với người vui
Chiều ngày 4-6-2012, anh PX Trần Lê Hải Tùng (tân tòng) và chị Maria Nguyễn Thị Kim Oanh, con ô. Giuse Nguyễn Văn Được và bà Maria Trần Thị Trinh Thuận (Yến), gh Ximon Hòa đã cử hành bí tích hôn phối tại nhà thờ Chính Tòa. Chúc anh chị luôn trung thành yêu thương nhau cho đến trọn đời.
THÔNG BÁO
1. Để chuẩn bị mừng lễ bổn mạng giáo xứ, mời quý ông bà và anh chị đã có gia đình tham dự tĩnh tâm vào lúc 5g30 chiều thứ hai ngày 11-6-2012, giới trẻ và thiếu nhi vào lúc 5g30 chiều thứ năm ngày 14-6-2012
2. Thứ sáu, ngày 15/6: lễ trọng kính Trái Tim Chúa Giêsu, bổn mạng giáo xứ Chính Tòa: sẽ có 2 thánh lễ trọng sáng và chiều theo giờ lễ ngày thường. Xin cộng đòan cố gắng tham dự tĩnh tâm và lễ bổn mạng giáo xứ đông đủ.
3. Giáo xứ cám ơn các ân nhân ủng hộ công trình xây dựng Nhà Mục Vụ: chị Bùi Thị Cúc ở Sài Gòn: 1.000.000$; 1 ân nhân: 1.000.000$;
4. Tổng kết đóng góp xây dựng tháng 5-2012:
a.       Gh Anrê Trông: 7.250.000$;
b.      Gh Ximon Hòa: 4.850.000$;
c.       Gh Giuse Thị: 3.900.000$;
d.      Gh Anrê Kim Thông: 5.200.000$;
e.       Gh Mathêu Phượng: 5.800.000$;
Tổng cộng cả 5 gh: 27.000.000$
5. Các thí sinh vào Sài Gòn dự  thi tuyển sinh trong tháng 7 tới đây, nếu có nhu cầu về chỗ trọ, xin xem thông báo chi tiết tại bảng  yết thị trước cửa nhà thờ.


Lễ Thánh Tâm Chúa

RẤT THÁNH TRÁI TIM CHÚA GIÊSU

Hôm nay toàn thể Giáo Hội hân hoan mừng lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, một trong những ngày lễ trọng kính Chúa trong năm Phụng Vụ. Nhưng Thánh tâm nghĩa là gì? “Thánh” nghĩa là thánh thiện, tốt lành; còn “tâm” nghĩa là trái tim, hay là lòng. Như vậy “Thánh Tâm” có nghĩa là trái tim rất thánh, rất tốt lành.

Đối với con người thì trái tim là cơ quan vô cùng quan trọng. Các nhà khoa học cho biết rằng trong quá trình phát triển của bào thai, trái tim được hình thành trước cả bộ não; trong khi bộ não đang hình thành, thì trái tim đã phát triển trọn vẹn. Chức năng của nó là gì? Chức năng của nó là cung cấp máu, tức là cung cấp “sự sống” cho toàn bộ cơ thể. Bao lâu nó còn đập thì bấy lâu cơ thể còn sống. Nếu nó ngưng đập, người ta sẽ đi diện “đoàn tụ ông bà” ngay. Quan trọng là vì vậy!

Dĩ nhiên, tôn kính Trái Tim Chúa Giêsu không có nghĩa là tôn kính một phần cơ thể, dù đó là phần quan trọng nhất. Mà tôn kính Trái Tim Chúa Giêsu có nghĩa là tôn kính chính tình yêu của Ngài, vì trái tim là biểu tượng của tình yêu.

Nhưng tại sao lại gọi Trái Tim Chúa Giêsu là Trái Tim Rất Thánh? Nếu xét về phương diện sinh học thì trái tim Chúa Giêsu và trái tim của mỗi người chúng ta chẳng có gì khác nhau. Chẳng khác nhau chút nào! Trái tim Chúa Giêsu cũng có 4 ngăn: tâm thất trái, tâm thất phải; tâm nhĩ trái, tâm nhĩ phải. Trái tim ấy cũng có 2 van: van này đóng van kia mở, và ngược lại. Trái tim ấy cũng có hai dòng máu: dòng máu đen và dòng máu đỏ luân chuyển đều đặn… Nhưng xét về phương diện yêu thương, có lẽ trái tim Chúa Giêsu khác trái tim chúng ta nhiều lắm. Khác thế nào?

Có câu chuyện kể rằng một người mẹ bị chứng đau tim nặng. Bác sĩ cho bà biết nếu không được giải phẩu thay tim ngay thì số ngày sống còn lại của bà chỉ đếm trên đầu ngón tay. Thế rồi người ta đề nghị một trong các con của bà hiến tim cho mẹ để cứu lấy sinh mạng của bà.

Người anh cả được mời gọi hiến tim cho mẹ. Dù rất thương mẹ, nhưng anh ta cũng lắc đầu từ chối với lý do: anh là con trai trưởng, là rường cột của gia đình, anh cần sống để chăm sóc đàn em, để nối dõi tông đường…. Rồi anh ta đề nghị đứa em gái nên hiến tim cho mẹ thì hợp lý hơn, vì theo anh nghĩ: tim người phụ nữ có lẽ thích hợp cho người phụ nữ hơn!

Đứa em gái nghe vậy giẫy nẩy lên và quyết liệt từ chối với lý do cô là người con gái duy nhất trong nhà và gia đình nào cũng cần có bàn tay người phụ nữ trông nom sắp xếp. Thiếu cô thì lấy ai đi chợ nấu ăn; lấy ai quét dọn nhà cửa, giặt giũ áo quần… Vậy cô cần phải sống. Có lẽ đứa em trai út vốn hay lêu lỏng chơi bời, là người vô tích sự, hiến tim chết thay cho mẹ thì phải lẽ hơn…

Đến lượt mình, đứa em nầy cũng viện lý do là nó mới chỉ tuổi teen, đang là thiếu nhi ngành nghĩa, chưa hưởng thụ được bao nhiêu, lẽ nào lại từ giã cuộc đời quá sớm ! Anh Hai hoặc Chị Ba đã hưởng được nhiều vui thú trên đời rồi, nếu có phải giã từ đời nầy trước đứa em út, thì cũng không có gì để ân hận… Thôi, Anh Hai hoặc Chị Ba vui lòng hiến tim cho mẹ thì tốt hơn.

Rõ ràng ta thấy rằng dù yêu thương mẹ vô vàn, nhưng không người con nào yêu đến nỗi dám hiến tặng trái tim cho người mẹ yêu quý của mình. Tuy nhiên có một Đấng vô cùng cao cả và đầy quyền năng, đã tự nguyện hiến dâng không những Trái Tim mà còn cả mạng sống của Người để cứu độ chúng ta. Đấng đó chính là Đức Giêsu Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa.

Như thế trái tim Chúa Giêsu khác ở chỗ là đã yêu thương đến độ sẵn sàng trao hiến tất cả cho loài người chúng ta. Trong các hình vẽ, người ta vẽ trái tim Chúa Giêsu nằm ngoài lồng ngực, có ý diễn tả điều gì? Diễn tả sự cho đi, sự trao hiến. Hiến trao đến cả giọt máu cuối cùng. Dấu chứng nói lên điều đó là hình ảnh trái tim bị đâm thâu. Trên cánh tay một số bạn trẻ thường vẽ hay xâm hình trái tim có ngọn giáo đâm xuyên qua với dòng chữ đi kèm: “hận đời tuổi trẻ”... chứ không phải là “tình yêu cho đi” hay “tình yêu dâng hiến”.

Chúng ta biết, theo tục lệ người Do Thái, người bị kết án tử hình không được treo xác qua đêm, nhưng phải chôn xác họ ngay trong ngày hôm đó. Ngày Chúa Giêsu bị đóng đinh trên Thập Giá là ngày Thứ Sáu, áp lễ Vượt Qua, một ngày lễ trọng của người Do Thái. Căn cứ theo luật lệ thời đó, họ đến xem Chúa Giêsu đã chết chưa để cho hạ xác xuống. Dù thấy Chúa Giêsu đã chết, nhưng để cho chắc ăn, một anh lính lấy ngọn giáo đâm vào cạnh sườn bên trái của Chúa. Từ vết thương mở ra đó, máu và nước trong trái tim tuôn chảy.

Trái tim Chúa đã hết mực yêu thương và khao khát cho tình yêu ấy được bùng cháy lên. Bởi đó ta thấy các bức tranh vẽ hình trái tim Chúa Giêsu thường có ngọn lửa ở trên. Đó là trái tim cháy lửa yêu mến. Trái tim luôn khát khao yêu thương. Ngược lại, một trái tim mà không biết yêu thương, người ta gọi đó là trái tim ngục tù, trái tim mùa đông, trái tim băng giá…

Trái tim Chúa Giêsu cũng là trái tim rất đỗi hiền lành và khiêm nhường. Khiêm nhường đến nỗi cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Hiền lành đến độ, trên thập giá, Chúa Giêsu không những đã nói lời tha thứ cho những kẻ đóng đinh ngài, mà còn cầu xin Chúa Cha tha tội cho họ nữa.

Vậy sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta điều gì? Mời gọi chúng ta hai điều:

- Về phương diện tích cực: có lẽ ai trong chúng ta cũng muốn trái tim mình nên giống trái tim của Chúa. Nhưng làm thế nào để nên giống trái tim của Chúa? Rất đơn giản. Nếu ta biết sống hiền lành khiêm tốn, bác ái vị tha và yêu thương hết mọi người... là ta đã có trái tim giống Trái Tim Chúa rồi.

- Về phương diện tiêu cực: chắc chắn không ai trong chúng ta muốn làm cho Trái Tim Chúa bị thương tổn. Vậy hãy cố gắng xa tránh tội lỗi. Bởi vì mỗi một tội ta phạm như là một mũi gai đâm vào Trái Tim Chúa. Và tất nhiên sẽ làm cho Trái Tim Chúa bị nhói đau. Thực tế ta đã phạm tội nhiều. Số tội có khi đủ kết thành vòng gai lớn và cái nào cái nấy nhọn hoắt quàng vào Trái Tim Chúa.

Chớ gì chúng ta có trái tim ngày càng giống Trái Tim của Chúa, bằng việc luôn sống hiền hậu khiêm cung, bác ái bao dung và yêu thương phục vụ mọi người. Nhất là không bao giờ phạm tội trọng làm cho Trái Tim Chúa bị tổn thương nữa.

Lm. Giuse Nguyễn Thành Long


"Ở lại trong Thầy" 
Lạy trái tim nhân hậu lân tuất của Chúa, chúng con xin chạy đến nương tựa vào Ngài. Xin Thánh Tâm Chúa là nguồn yêu thương tha thứ lỗi lầm cho chúng con và ban cho chúng con con tim biết yêu thương như Chúa đã yêu thương.


Thánh Tâm Chúa Giêsu, nguồn êm ái dịu dàng


Tháng 6, tháng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, Giáo Hội mời gọi con cái mình chạy đến với Thánh Tâm Chúa Giêsu, kín múc nguồn ơn phúc dồi dào từ nơi trái tim tự hiến vì quá yêu nhân loại.

Chiêm ngắm Thánh Tâm Chúa Giêsu, những người lương dân họ thấy lạ, bởi vì chưa bao giờ nhìn thấy một người nào lại đem trái tim của mình ra trước ngực hay cầm trái tim nơi tay và từ nơi trái tim ấy lại bừng cháy mạnh mẽ. Một ngọn lửa bừng cháy lên như thiêu đốt lấy con tim của Người.

Vì sao như vậy ? Thưa, vì Chúa Giêsu yêu chúng ta, Người không che giấu trong lòng nữa mà phơi bầy ra cho nhân loại thấy: Trái tim của Người không còn ở trong lồng ngực nữa, mà vượt ra ngoài để tỏ cho nhân loại biết vẫn còn thật nhiều tình yêu của Thánh Tâm Chúa Giêsu đối với nhân loại. Chúa yêu nhân loại đến nỗi đổ máu mình ra và chết cách nhục nhả trên cây thập giá. Từ cạnh sườn Người máu và nước đã đổ ra hầu khơi nguồn các bí tích, bí tích của tình yêu tự hiến.

Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, nhìn lại cuộc đời của chúng con, đã bao lần chúng con đã làm trái tim Chúa phải rỉ máu ra, phải chịu những gai nhọn đâm thâu. Không ít lần chúng con làm ngơ trước những mảnh đời đau khổ, họ đang cần đến lời an ủi của chúng con. Lạy Chúa, có nhiều lần những người trong chúng con đã nhổ nước bọt vào những người ghẻ lở hay phong hủi, chúng con đã chạy trốn họ như chạy trốn thú dữ, xa lánh họ và gay gắt lên án họ là họ bị Thiên Chúa chúc dữ.

Chúa ơi ! Chúng con đã yêu chính mình hơn người khác, yêu sở thích của chính mình thay vì giang tay ra cứu vớt một người đang trên bờ vực của sự thất vọng. Trái tim của chúng con đã trở nên chai sạn, có quá nhiều thứ để chúng con phải đạt được mà chúng con không đạt được. Vì thế, chúng con càng đóng cửa con tim của mình lại và xa lánh mọi người, sợ mọi người nhìn thấy sự thất bại của chúng con.

Lạy trái tim nhân hậu lân tuất của Chúa, chúng con xin chạy đến nương tựa vào Ngài. Khi chúng con chạy đến bên Ngài, chúng con sẽ nhận được nhiều hơn chúng con tưởng. Lạy Thánh Tâm Chúa, vì yêu chúng con Chúa đã đổ máu ra và từ cạnh sườn Người máu và nước đã đổ ra để cho chúng con được sống và sống dồi dào.

Trở về bên Thánh Tâm Chúa, chúng con xin Chúa tha thứ những lỗi lầm và xin Thánh Tâm Chúa ban thêm sức mạnh để chúng con biết yêu Chúa nhiều hơn, giúp đỡ tha nhân và noi gương Thánh Tâm Chúa mà yêu thương hết mọi người. Chúng con xin hát vang lời ca: “Thánh Tâm Chúa Giêsu nguồn êm ái dịu dàng, xin hãy ban xuống lòng con tàn lửa yêu say một Chúa. Thánh Tâm Chúa Giêsu tràn lan niềm thương mến, xin thương những người đã trót cả lòng vấp phạm đến Thánh Tâm Ngài”.


Tác giả bài viết: Jos. Anh Đức, ĐTV





Lòng sùng kính Thánh Tâm là dạng sùng kính đặc biệt đối với Chúa Giêsu. Chúng ta biết lòng sùng kính đó là gì và khi chúng ta xác định đối tượng, nền tảng, và hành động đúng lòng sùng kính này.

Khách thể đặc biệt của lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa

Bản chất của vấn đề này phức tạp và thường trở nên nhiêu khê hơn vì những khó khăn nảy sinh từ thuật ngữ. Bỏ qua những thuật ngữ mang tính kỹ thuật quá, chúng ta sẽ tìm hiểu chính các ý tưởng, và chúng ta có thể sớm tìm ra ý nghĩa, sẽ tốt để ghi nhớ ý nghĩa và dùng chữ “trái tim” trong ngôn ngữ hiện hành.

(a) Trước hết, chữ “trái tim” gợi ý tưởng về một trái tim vật chất, một cơ phận chính đập nhịp trong lồng ngực, và chúng ta nhận thấy nó liên kết không chỉ với thể lý, mà còn với cảm xúc và đời sống luân lý. Trái tim bằng thịt này được chấp nhận là biểu tượn của cảm xúc và đời sống luân lý, do đó mà chữ “trái tim” có trong ngôn ngữ hình tượng, “trái tim” cũng chỉ định những thứ được hình tượng hóa là trái tim. Chẳng hạn, cách diễn tả “mở lòng”, “trao tặng trái tim”, v.v… Có thể biểu tượng đó không còn ý nghĩa vật chất. Như vậy, trong ngôn ngữ, chữ tâm hồn cũng không còn chỉ mang ý nghĩa về hơi thở, và chữ “trái tim” làm chúng ta nghĩ tới sự can đảm và yêu thương. Nhưng có thể đây là cách nói hoặc phép ẩn dụ chứ không hẳn là biểu tượng. Biểu tưởng là dấu hiệu thật, do đó mà phép ẩn dụ chỉ là dấu hiệu bằng lời nói; biểu tượng là cái thể hiện một cái khác, nhưng phép ẩn dụ là chữ dùng để chỉ định cái gì đó khác với nghĩa riêng của nó. Cuối cùng, trong ngôn ngữ, chúng ta luôn chuyển một phần thành tổng thể, và bằng cách nói tự nhiên, chúng ta dùng chữ “trái tim” để chỉ định một con người. Các ý tưởng này sẽ giúp chúng ta xác định khách thể của lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa.

(b) Vấn đề nằm giữa ý nghĩa vật chất, ẩn dụ và biểu tượng của chữ “trái tim”; khách thể của lòng sùng kính này là trái tim bằng thịt, hoặc Tình yêu của Chúa Kitô được ẩn dụ hóa bằng chữ “trái tim”; hoặc trái tim bằng thịt, nhưng là biểu tượng của đời sống tình cảm và luân lý của Chúa Giêsu, và nhất là Tình yêu của Ngài dành cho chúng ta. Chúng ta nói rằng sự tôn thờ trái tim bằng thịt là đúng, vì đó là biểu tượng và nhắc nhớ đến Tình yêu của Chúa Giêsu, đời sống tình cảm và luân lý của Ngài. Như vậy, dù trực tiếp với trái tim vật chất, nhưng không dừng lại ở đó: bao gồm tình yêu, khách thể chính, nhưng chỉ đạt đến và qua trái tim bằng thịt, dấu hiệu và biểu tượng của tình yêu. Lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, phần quan trọng nhất của Thánh Thể Chúa, kông là lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu như được hiểu và được chấp thuận bởi Giáo hội, và cách tương tự cũng được nói về lòng sùng kính Tình yêu của Chúa Giêsu như tách khỏi trái tim bằng thị của Ngài, hoặc nối kết không bằng hệ lụy nào khác hệ lụy của chữ theo nghĩa ẩn dụ. Do đó, trong lòng sùng kính này có hai yếu tố: yếu tố nhận biết và yếu tố tinh thần, trái tim bằng thịt biểu hiện và nhắc nhớ tới yếu tố tinh thần. Nhưng hai yếu tố này không hình thành hai khách thể riêng biệt, cơ thể và linh hồn cũng vậy. Do đó hai yếu tố đó là cần thiết cho lòng sùng kính này vì cơ thể và linh hồn là cần thiết đối với con người. Hai yếu tố này tạo nên một tổng thể, yếu tố chính là tình yêu, nguyên nhân của lòng sùng kính và lý do hiện hữu là linh hồn, đó là yếu tố chính trong con người. Do đó, lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu có thể được xác định là lòng sùng kính Trái Tim Chúa Giêsu tới mức mà trái tim này biểu hiện và nhắc nhớ tới Tình yêu của Ngài, hoặc lòng sùng kính Tình yêu của Đức Giêsu Kitô, vì tình yêu này được nhớ lại và bày tỏ với chúng ta qua trái tim bằng thịt của Ngài.

(c) Do đó, lòng sùng kính hoàn toàn dựa vào biểu tượng của trái tim. Chính biểu tượng này truyền đạt ý nghĩa và tính duy nhất, và biểu tượng này được hoàn tất bằng sự biểu hiện của trái tim bị thương tích. Vì Thánh Tâm Chúa Giêsu bày tỏ cho chúng ta bằng dấu hiệu của Tình yêu của Ngài, vết thương ở Trái Tim hửu hình của Chúa Giêsu sẽ nhắc nhớ về vết thương vô hình của Tình yêu này. Biểu tượng này cũng giải thích rằng lòng sùng kính này, mặc dù dành cho Thánh Tâm Chúa Giêsu một vị trí cần thiết, vẫn là nhỏ bé do liên quan với khoa giải phẫu trái tim hoặc khoa sinh học. Nhưng, trong hình ảnh Thánh Tâm Chúa Giêsu, cách diễn tả biểu tượng này phải trổi vượt hơn mọi thứ, độ chính xác về giải phẫu học không được xem xét; nó có thể làm tổn thương lòng sùng kính bằng cách đưa ra biểu tượng ít hiển nhiên hơn. Rất đúng khi nói trái tim là biểu tượng được phân biệt với trái tim theo giải phẫu học: Tính phù hợp của hình ảnh có lợi cho cách diễn tả của tư tưởng này. Trái tim hữu hình cần thiết đối với hình ảnh Thánh Tâm Chúa Giêsu, nhưng trái tim hữu hình này phải là một trái tim biểu tượng. Cách quan sát tương tự về sinh học, trong đó lòng sùng kính này không thể hoàn toàn vô tư, vì trái tim bằng thịt được tôn thờ để biết Tình yêu của Chúa Giêsu ở đó, là Thánh Tâm Chúa Giêsu, là trái tim sống động thực sự, đã yêu thương và đau khổ; như chúng ta cảm nhận, Trái Tim đó đã chia sẻ đời sống tình cảm và luân lý của Ngài; tuy nhiên, như chúng ta biết, Trái Tim đó thô sơ về các hoạt động của đời sống con người, có một phần như thế trong các hoạt động thuộc đời sống của Ngài. Nhưng sự mặc khải về tình yêu của Đức Kitô không là dấu hiệu thuần túy bình thường, như trong mối tương quan của từ ngữ đối với một vật, hoặc của lá cờ đối với ý tưởng của một quốc gia; Trái Tim vẫn liên kết với đời sống của các việc tốt lành và yêu thương. Tuy nhiên, Trái Tm đó đủ đối với lòng sùng kính mà chúng ta biết và cảm nghiệm được sự kết hiệp thân mật này. Chúng ta không có gì để do with physiology của Thánh Tâm Chúa hoặc xác định các chức năng chính xác của trái tim trong đời sống hằng ngày. Chúng ta biết rằng biểu tượng của trái tim là biểu tượng dựa trên thực tế và nó cấu thành khách thể đặc biệt của lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, lòng sùng kính này không có nguy cơ sai lầm.

(d) Trên tất cả, trái tim là là biểu tượng của tình yêu, và qua đặc tính này, lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu là điều tự nhiên. Tuy nhiên, hướng tới Trái Tim yêu thương của Chúa Giêsu thì sẽ gặp điều mà Chúa Giêsu liên kết với tình yêu này. Tình yêu này không là không là lý do Đức Kitô thực hiện và chịu đau khổ? Không là nội tại của Ngài, thậm chí còn hơn là ngoại tại của Ngài, đời sống ảnh hưởng tình yêu này? Mặt khác, lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa, được hướng tới Trái Tim sống động của Chúa Giêsu, như vậy đã trở thành quen thuộc với toàn bộ đời sống nội tâm của Thầy Chí Thánh, với các nhân đức và tình cảm của Ngài, với tình yêu vô biên của Chúa Giêsu. Từ đó, sự mở rộng đầu tiên của lòng sùng kính này bắt nguồn từ Trái Tim yêu thương tới sự hiểu biết thân mật của Chúa Giêsu, tới tình cảm và nhân đức của Ngài, tới cảm xúc và đời sống luân lý của Ngài; từ Trái Tim yêu thương tới cách thể hiện yêu thương của tình yêu này. Vẫn có cách mở rộng khác, dù cùng ý nghĩa, được làm theo cách khác, bằng cách chuyển từ Trái Tim tới Ngôi vị, như chúng ta thấy, cách này rất tự nhiên. Khi nói về trái tim to lớn, chúng ta ám chỉ ngôi vị, như khi chúng ta nói tới Thánh Tâm Chúa Giêsu. Tuy nhiên, vì cả hai đều đồng nghĩa, nhưng khi chữ trái tim thường được nói tới con người, vì một con người như vậy được coi là liên quan cảm xúc và đời sống luân lý. Như vậy, khi chúng ta nói tới Chúa Giêsu là Thánh Tâm Chúa, chúng ta có ý nói rằng khi Chúa Giêsu bày tỏ Thánh tâm Ngài, Chúa Giêsu yêu thương và đáng yêu. Chúa Giêsu hoàn toàn được “tóm lược” trong Thánh Tâm Ngài như trong chính Ngài.

(e) Trong chính lòng sùng kính Chúa Giêsu, người ta không thể không thấy Tình yêu Ngài bị khước từ. Tc luôn “than thở” trong Kinh thánh, và các thánh cũng luôn nghe biết những lời than của tình-yêu-không-được-đáp-lại. Một trong các lĩnh vực chính của lòng sùng kính này là cân nhắc Tình yêu của Chúa Giêsu, vì chúng ta đã coi thường và làm ngơ tình-yêu-Ngài-dành-cho-chúng-ta. Chính Ngài đã mặc khải tình yêu này khi Ngài than thở với Thánh Margaritta Maria Alacoque (1647-1690).

(f) Tình yêu này được thể hiện mọi nơi trong Chúa Giêsu và trong cuộc đời Ngài, tình yêu đó có thể giải thích về Ngài bằng những lời nói và hành động của Ngài. Do đó, tình yêu này chiếu sáng hơn trong các mầu nhiệm sinh ra cho chúng ta, trong đó Chúa Giêsu sinh ra nhiều điều tốt và hoàn tất trong tặng phẩm là chính Ngài qua việc nhập thể, cuộc khổ nạn, và bí tích Thánh Thể. Hơn nữa, các mầu nhiệm này có vị trí trong lòng sùng kính này, ở bất kỳ nơi nào chúng ta tìm kiếm Chúa Giêsu và các dấu hiệu yêu thương của Ngài thì chúng ta đều tìm thấy ở một mức độ rộng lớn hơn trong các hành động vĩ đại của Ngài.

(g) Chúng ta biết rằng lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, Đấng là biểu tượng của tình yêu, có trong tình yêu của Ngài dành cho nhân loại. Điều này rõ ràng, vì điều này có trong tình yêu của Ngài dành cho nhân loại, Thánh Tâm Ngài đã quá yêu chúng ta, như Ngài đã mặc khải cho Thánh Margaritta Maria Alacoque.

(h) Cuối cùng, vấn đề là tình yêu đó thể hiện qua lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, Ngài yêu chúng ta với tư cách một con người và yêu chúng ta với tư cách Thiên Chúa, đó là lòng thương xót bao la của Ngài. Chắc chắn đó là tình yêu của Thiên-Chúa-làm-người, tình yêu của Ngôi-Lời-nhập-thể. Tuy nhiên, đó không là những con người sùng mộ nghĩ về việc tách rời 2 tình yêu này như họ đã tách rời 2 bản tính trong Chúa Giêsu. Ngoài ra, mặc dù chúng ta có thể muốn giải quyết phần này của vấn đề bằng mọi cách, chúng ta có thể thấy rằng các ý kiến của các tác giả đều khác nhau. Một số người cho rằng Trái Tim bằng thịt chỉ được liên kết với tình yêu nhân loại, họ cho rằng đó không là biểu tượng của Tình yêu Thiên Chúa. Hơn nữa, không riêng ngôi vị của Chúa Giêsu, do đó, Tình yêu Thiên Chúa không là khách thể trực tiếp của lòng sùng kính này. Một số khác cho rằng Tình yêu Thiên Chúa khác với Ngôi-Lời-nhập-thể không là khách thể của lòng sùng kính này, họ tin như vậy khi coi là tình yêu của Ngôi-Lời-nhập-thể, và họ không hiểu tại sao tình yêu này cũng không thể được biểu tượng là Trái Tim bằng thịt, hoặc tại sao lòng sùng kính này chỉ nên hạn chế là tình yêu sáng tạo.

Nền tảng lòng sùng kính Thánh Tâm

Vấn đề này có thể được cân nhắc theo 3 phương diện: lịch sử, thần học và khoa học.

1. Nền tảng lịch sử. Khi chấp thuận lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, Giáo hội không tin thị kiến của Thánh Margaritta Maria Alacoque, coi đó là trừu tượng và kiểm tra chính lòng sùng kính này. Thị kiến của Thánh Margaritta Maria Alacoque có thể sai, nhưng lòng sùng kính này thì không sai, do đó xứng đáng và vững chắc. Tuy nhiên, sự thật là lòng sùng kính này được truyền bá chủ yếu do ảnh hưởng phong trào bắt đầu từ Paray-le-Monial; và trước khi được phong chân phước, thị kiến của nữ tu Margaritta Maria Alacoque đã được Giáo hội kiểm tra kỹ lưỡng, phán đoán những trường hợp như vậy không liên quan tính không sai lầm của bà nhưng chỉ ngụ ý tính chắc chắn con người đủ để bảo đảm tính tất nhiên của lời nói và hành động.

2. Nền tảng thần học. Thánh Tâm Chúa Giêsu, cũng như những thứ khác thuộc Ngôi vị của Ngài, xứng đáng để chúng ta tôn thờ, nhưng điều này không như vậy nếu Ngôi vị đó được coi là tách biệt và không liên kết với Ngôi vị này. Tuy nhiên, trong “Auctorem Fidei” (1) năm 1794, ĐGH Piô VI đã xác nhận lòng sùng kính này trong phương diện này để bác bỏ các lời vu khống của tà thuyết Jansen (2). Mặc dù sự tôn thờ này dành cho Thánh Tâm Chúa Giêsu, mở rộng vượt ngoài trái tim bằng thịt, hướng tới tình yêu mà Trái Tim này là biểu tượng sống động và có ý nghĩa. Về điểm này, lòng sùng kính không đòi buộc sự biện hộ, vì điều đó thuộc về Ngôi vị của Chúa Giêsu được hướng tới, nhưng đối với Ngôi vị không thể tách biệt khỏi thiên tính của Ngài. Chúa Giêsu thể hiện sống động điều tốt lành của Thiên Chúa, của Tình Phụ tử yêu thương vô hạn, là khách thể của lòng sùng kính Thánh Tâm, vì Ngài thực sự là khách thể của Kitô giáo. Cái khó là sự hiệp nhất của trái tim và tình yêu, trong mối tương quan mà lòng sùng kính giữa điều này và điều kia.

3. Nền tảng triết học và khoa học. Về phương diện này cũng có sự không kiên định giữa các thần học gia, không coi là nền tảng của mọi vật mà về vấn đề giải thích. Đôi khi họ nói như thể trái tim là cơ phận của tình yêu, nhưng điểm này không có nền tảng về lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, đủ để nói rằng trái tim là biểu tượng của tình yêu, và đối với nền tảng của biểu tượng, sự-nối-kết-thực-tế hiện hữu giữa trái tim và các cảm xúc. Ngày nay, biểu tượng của trái tim là một thực tế và mọi người đều cảm thấy trong trái tim có một loại tiếng vang của tình cảm. Nghiên cứu sinh lý về tiếng vọng này có thể rất thú vị, nhưng không cần đối với lòng sùng kính, vì nền tảng của lòng sùng kính là sự kiện đã được kiểm chứng bằng kinh nghiệm hằng ngày, sự thật mà nghiên cứu sinh lý xác định các tình trạng, nhưng không đòi hỏi nghiên cứu này hoặc bất kỳ sự hiểu biết đặc biệt nào với chủ thể của nó.

Hành động riêng của lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu

Hành động này được đòi hỏi bởi chính khách thể của lòng sùng kính, vì lòng sùng kính tình yêu của Chúa Giêsu đối với chúng ta nên là lòng sùng kính nổi trội về tình yêu đối với Chúa Giêsu. Lòng sùng kính này được thể hiện bằng việc đáp lại tình yêu; mục đích của lòng sùng kính này là yêu mến Chúa Giêsu, Đấng yêu thương chúng ta vô cùng, để tình yêu đáp lại tình yêu. Tuy nhiên, tình yêu của Chúa Giêsu thể hiện với linh hồn đạo đức là tình yêu bị coi thường, nhất là qua Bí tích Thánh Thể, tình yêu này đươc diễn tả trong lòng sùng kính này có tính đền đáp, và do đó có sự quan trọng của việc đền tội, rước lễ để đền tội, và chia sẻ đau khổ của Chúa Giêsu. Nhưng không gì có thể làm kiệt quệ sự phong phú của lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Tình yêu là sự ấp ủ linh hồn, càng hiểu biết tình yêu thì càng gắn bó với Chúa Giêsu, kết hiệp mật thiết vớ Ngài, với Thánh Tâm Ngài.

Ý tưởng lịch sử về việc phát triển lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu

1. Từ thời Thánh Gioan và Thánh Phaolô, trong Giáo hội cũng đã có những cách sùng kính như lòng sùng kính Tình Yêu của Thiên Chúa, Đấng đã yêu thế gian đến nỗi trao ban chính Con Một của Ngài, và chính Chúa Giêsu cũng yêu thương chúng ta đến nỗi hiến thân vì chúng ta. Nhưng, nói một cách chính xác, đây không là lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, vì không có lòng kính trọng Thánh Tâm Chúa Giêsu như biểu tượng của Tình yêu của Ngài dành cho chúng ta. Từ các thế kỷ đầu, phù ợp với gương của của Thánh sử, cạnh sườn của Đức Kitô và mầu nhiệm Máu và Nước đã được suy niệm, và Giáo hội chiêm ngưỡng những gì chảy ra từ cạnh sườn của Chúa Giêsu, như bà Êva được tạo nên từ xương sườn của ông Adam. Nhưng trong 10 thế kỷ đầu không có gì chứng tỏ điều đó, không có sự tôn thờ nào dành cho Trái Tim bị thương tích ấy.

2. Thế kỷ XI và XII, chúng ta thấy có những cách chứng tỏ lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Vết thương ở Trái Tim dần dần được đạt tới, và vết thương đó là biểu tượng của tình yêu. Đó là trong không khí nhiệt thành của Dòng Biển Đức hoặc Dòng Xitô, theo tư tưởng của Thánh Anselmô hoặc Thánh Bênađô, rằng lòng sùng kính này tăng lên, dù không thể xác định các văn bản hoặc những người sùng kính đầu tiên. Theo Thánh Gertrude, Thánh mechtilde, và tác giả bản “Vitis mystica” (Cây nho Thần bí) đã nổi danh, chúng ta không thể chắc chắn xác định ai đã có công soạn “Vitis mystica”. Cho tới thời gian gần đây, lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu đã được quy cho Thánh Bênađô, nhưng cũng có thể quy cho Thánh Bônaventura (“S. Bonaventura opera omnia”, 1898, VIII, LIII sq.). Nhưng, có thể vậy, nó gồm một trong những đoạn ahy đã từng truyền cảm hứng lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, thích hợp để Giáo hội có những bài học về kinh đêm của ngày lễ. Đối với Thánh Mechtilde (qua đời năm 1298) và Thánh Gertrude (qua đời năm 1302), đó là lòng sùng kính tương tự đã được chuyển thành nhiều lời nguyện và cách sử dụng. Điều đáng quan tâm là thị kiến của Thánh Gertrude vào chính ngày lễ Thánh Gioan Tông đồ, vì điều đó đã hình thành lịch sử của lòng sùng kính này. Được tựa đầu vào ngực Chúa Giêsu, bà đã nghe nhịp đập của Thánh Tâm Chúa Giêsu và hỏi Thánh Gioan rằng trong Bữa Tiệc Ly, ngài cũng nghe những nhịp đập kỳ diệu như vậy mà sao ngài không nói gì. Thánh Gioan trả lời rằng mặc khải này đã được giữ cho các hậu duệ, khi mà thế giới trở nên nguội lạnh, họ cần nhen nhóm lại tình yêu này (Legatus divinae pietatis, IV, 305; Revelationes Gertrudianae, ed. Poitiers and Paris, 1877).

3. Từ thế kỷ XIII tới XVI, lòng sùng kính này được truyền bá nhưng vẫn không phát triển nhiều. Khắp nơi được thực hành bởi các linh hồn được đặn ân, các thánh và các dòng tu như Dòng Phanxicô, Dòng Đa Minh, Dòng Carthusians, v.v… có nhiều tấm gương về lòng sùng kính này. Vì thế, đó là lòng sùng kính riêng của các dòng thần bí này. Không có gì khởi đầu, chỉ có viêc truyền bá lòng sùng kính Năm Dấu Thánh, trong đó Dấu Thánh ở Thánh Tâm được lưu ý nhất, và để xúc tiến điều đó, Dòng Phanxicô đã nỗ lực nhiều.

4. Khoảng thế kỷ XVII, lòng sùng kính tiếp tục phát triển và chuyển từ lĩnh vực thần bí sang lĩnh vực khổ hạnh Kitô giáo. Điều đó cấu thành một lòng sùng kính khách quan bằng những lời cầu nguyện được soạn sẵn và các cách thực hiện đặc biệt mà giá trị và cách thực hành đó được ca tụng. Chúng ta biết điều này nhờ các văn bản của các “sư phụ” về đời sống tâm linh là Lanspergius đạo hạnh (qua đời năm 1539), Dòng Carthusians ở Cologne, tu sĩ đạo hạnh Louis Blois (Blosius, 1566), Dòng Biển Đức, và Tu viện trưởng Liessies ở Hainaut. Có thể kể cả Chân phước Gioan Avila (qua đời năm 1569) và Thánh Phanxicô Salê, thế kỷ XVII.

5. Từ đó, mọi thứ cho thấy rõ lòng sùng kính này. Các tác giả khổ hạnh nói về điều đó, nhất là các tác giả Dòng Tên như Alvarez de Paz, Luis de la Puente, Saint-Jure, và Nouet, vẫn có những thỏa thuận đặc biệt về vấn đề này như tác phẩm nhỏ “Meta Cordium, Cor Jesu” của LM Druzbicki (qua đời năm 1662). Trong số các nhà thần bí và các linh hồn đạo đức tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu có Thánh Francis Borgia, Chân phước Phêrô Canisiô, Thánh Aloysiô Gonzaga, và Thánh Anphong Rodriguez, Dòng Tên; kể cả Tôi tớ Chúa Marina de Escobar (qua đời năm 1633), ở Tây Ban Nha; Bậc đáng kính Madeleine Thánh Giuse và Tôi tớ Chúa Margaritta Thánh thể, Dòng Cát Minh, Pháp quốc; Jeanne de S. Mathieu Deleloe (qua đời năm 1660), Dòng Biển Đức, Bỉ quốc; Armelle ở Vannes (qua đời năm 1671); thậm chí cả những người theo thuyết Jansen hoặc các trung tâm thế giới, Marie de Valernod (qua đời năm 1654) và Angélique Arnauld; M. Boudon, the great archdeacon ở Evreux, Linh mục Huby, tông đồ ẩn dật ở Brittany, và đặc biệt là Bậc đáng kính Maria Nhập Thể (qua đời tại Quebec năm 1672). Trực giác của Thánh Phanxicô Salê, các bài suy niệm của Mẹ Huillier (qua đời năm 1655), các thị kiến của Mẹ Anne-Marguerite Clément (qua đời năm 1661), và của nữ tu Jeanne-Bénigne Gojos (qua đời năm 1692) là những cái khởi đầu. Linh ảnh Thánh Tâm Chúa Giêsu có ở khắp nơi, đó là nhờ lòng sùng kính của Dòng Phanxicô đối với Năm Dấu Thánh và thói quen tốt lành của Dòng Tên thường đặt linh ảnh Thánh Tâm Chúa Giêsu trên các cuốn sách và trên tường nhà nguyện.

6. Tuy nhiên, lòng sùng kính này vẫn là riêng tư cá nhân. Thánh LM Gioan Eudes (1602-1680) đã công khai hóa để tôn kính bằng một Thánh lễ. LM Eudes là tông đồ của Trái Tim Đức Mẹ, nhưng việc ngài tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm có cả Thánh Tâm Chúa Giêsu. Dần dần lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu trở nên lòng sùng kính riêng biệt, và ngày 31-8-1670, lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu lần đầu tiên được cử hành trọng thể tại Đại chủng viện Rennes. Theo sau là ở Coutances vào ngày 20-10, vì thế ngày này có liên quan lễ Thánh Eudes. Lễ này mau chóng lan rộng tới các giáo phận khác, và lòng sùng kính này cũng xuất hiện tại nhiều dòng tu. Đây đó cũng bắt đầu có lòng sùng kính này, khởi đầu từ Paray.

(7) Chính Thánh Margaritta Maria Alacoque, một nữ tu khiêm nhường của Dòng Thăm Viếng ở Paray-le-Monial, đã được Chúa Giêsu chọn để mặc khải những mong muốn của Thánh Tâm Ngài và giao nhiệm vụ phổ biến cách sống mới đối với lòng sùng kính này. Không có gì cho biết rõ rằng nữ tu đạo hạnh này đã biết lòng sùng kính này trước những lần được mặc khải, hoặc là bà đã chú ý tới điều đó. Các mặc khải này nhiều lắm, và những lần hiện ra tiếp theo rất đáng chú ý: Chúa Giêsu hiện ra vào ngày lễ Thánh Gioan, khi Ngài cho phép nữ tu Margaritta Maria Alacoque, như Ngài đã cho phép Thánh Gertrude, được tựa đầu vào ngực Ngài, được nghe những nhịp đập yêu thương của Ngài, được biết Ngài muốn bày tỏ lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa cho toàn nhân loại và loan truyền lòng nhân lành của Chúa. Ngài bày tỏ cho bà điều này vào ngày 27-12, có thể là năm 1673. Ngài hiện ra với lòng yêu thương và yêu cầu tôn sùng tình yêu cứu chuộc (expiatory love) – rước lễ thường xuyên, rước lễ vào ngày Thứ Sáu Đầu Tháng, và làm Giờ Thánh (có thể là tháng 6 hoặc tháng 7-1674); đó là lần hiện ra quan trọng xảy ra trong tuần bát nhật lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu (Corpus Christi) năm 1675, có thể vào ngày 16 tháng 6, khi Chúa Giêsu nói: “Hãy ngắm nhìn Thánh Tâm Ta yêu thương nhân laoị biết bao… Nhưng thay vì được biết ơn, Ta chỉ nhận được sự vô ơn…”, và Ngài yêu cầu bà vận động thành lập lễ kính Thánh Tâm vào Thứ Sáu sau lễ kính Mình Máu Thánh, và nói bà cho LM Colombière biết, lúc đó LM Colombière là bề trên Dòng Tên tại Paray.

Cuối cùng, lòng sùng kính này là trách nhiệm loan truyền của Dòng Thăm Viếng và các linh mục Dòng Tên. Vài ngày sau lần hiện ra quan trọng đó, tháng 6-1675, nữ tu Margaritta Maria Alacoque đã nói với LM Colombière, và điều này được nhận biết là tinh thần của Chúa, LM Colombière đã tận hiến cho Thánh Tâm Chúa Giêsu, hướng dẫn nữ tu Margaritta Maria Alacoque viết lại việc thị kiến, được dùng ở Pháp quốc và Anh quốc. Khi LM Colombière qua đời, 15-1-1682, người ta phát hiện bản chép tay mà ngài đã yêu cầu nữ tu Margaritta Maria Alacoque viết, cùng với vài nhận xét về lợi ích của lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Bản giải thích lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu được xuất bản tại Lyons năm 1684. Cuốn sách nhỏ này được đọc nhiều, ngay cả ở Paray, dù vẫn có sự lầm lẫn về Thánh Margaritta Maria Alacoque, người đã có công truyền bá lòng sùng kính này. Moulins với Mẹ de Soudeilles, Dijon với Mẹ de Saumaise và nữ tu Joly, Semur với Mẹ Greyfié, và thậm chí ở Paray, đã phản đối nhưng rồi lại hòa nhập. Ngoài các tu sĩ Dòng Thăm Viếng, các linh mục, các tu sĩ, và giáo dân đã tán thành, đặc biệt là một tu sĩ Dòng Phanxicô, hai tu sĩ Dòng Thánh Margaritta Alacoque, và một số tu sĩ Dòng Tên, các linh mục Croiset và Gallifet, đã hành động nhiều vì lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu.

(8) Sau khi Thánh Margaritta Maria Alacoque qua đời ngày 17-10-1690, lòng nhiệt thành của những người này vẫn không giảm sút; ngược lại, năm 1691, LM Croiset đã cho xuất bản cuốn “De la Dévotion au Sacré Cœur” (Về việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu) để truyền bá lòng sùng kính này. Mặc dù gặp nhiều trở ngại, sự trì trệ của Tòa thánh, năm 1693 đã có Huynh đoàn Thánh Tâm Chúa (Confraternities of the Sacred Heart), năm 1697, đã giao hội này cho các tu sĩ Dòng Thăm Viếng với lễ Năm Dấu Thánh (Mass of the Five Wounds). Lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu phát triển mạnh, nhất là tại các dòng tu. Năm 1720, dịch bệnh ở Marseilles có thể là dịp đầu tiên để tận hiến và công khai tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu bên ngoài các cộng đoàn tu. Các thành phố khác ở miền Nam noi gương của Marseilles, thế nên lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu trở nên phổ biến. Năm 1726, người ta xin ý kiến của Rôma về lễ Thánh Tâm, nhưng Rôma vẫn từ chối vào năm 1729. Tuy nhiên, năm 1765, theo yêu cầu của Nữ hoàng, lễ này chính thức được các giám mục Pháp đón nhận. Năm 1856, theo yêu cầu của các giám mục Pháp, ĐGH Piô IX đã mở rộng lễ này cho Giáo hội hoàn vũ bằng một nghi thức trang trọng. Năm 1889, lễ này được Giáo hội nâng lên thành lễ bậc nhất. Việc tận hiến và chuẩn bị cho việc sùng kính này. Nhất là từ năm 1850, các cộng đoàn và các nhà dòng được tận hiến cho Thánh Tâm Chúa Giêsu, và năm 1875, việc tận hiến này được mở rộng ra cả thế giới Công giáo. ĐGH vẫn không muốn can thiệp. Cuối cùng, ngày 11-6-1899, theo lệnh của ĐGH Lêô XIII, và theo công thức ngài lập ra, cả thế giới được tận hiến cho Thánh Tâm Chúa Giêsu. ĐGH Lêô XIII gọi điều này là “điều vĩ đại” trong triều đại giáo hoàng của ngài, điều mà một nữ tu Dòng Chúa Chiên Lành ở Oporto (Bồ Đào Nha) đã nói rằng bà nhận từ chính Chúa Giêsu. Bà là thành viên của cộng đoàn Drost-zu-Vischering, và được biết đến là nữ tu Maria Thánh Tâm Chúa. Bà qua đời vào đúng ngày lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, 2 ngày trước khi tận hiến, điều được hoãn lại vào Chúa nhật kế tiếp. Trong khi nói tới điều này, chúng ta đừng quên nói tới lòng sùng kính riêng trong các linh hồn. Vả lại, chúng ta đừng bỏ qua tính xã hội trong những năm sau. Nhất là Giáo hội Công giáo Pháp bám sát điều này như niềm hy vọng mạnh mẽ nhất của ơn cứu độ.
TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ NewAdvent.org)

(*) Auctorem Fidei là sắc chỉ của ĐGH Piô VI, vào năm 1794, lên án 85 luận đề của Nghị hội phái Jansenist của Ý ở Pistoia, do giám mục Scipione de’Ricci (1741-1810) cầm đầu. Trong các quan điểm khác bị lên án có thuyết cho rằng các hội đồng giám mục cấp quốc gia có quyền cởi buộc độc lập với Tòa thánh.

(1) Jansenism là thuyết của thần học gia Công giáo Cornelis Jansen (1585–1638), khoảng 1656-1657, dựa trên thuyết tiền định luân lý (moral determinism). Các nguyên tắc thần học của Cornelis Jansen nhấn mạnh sự tiền định, phủ nhận ý chí tự do, cho rằng bản chất con người hư hỏng, không thể tốt lành, còn Chúa Kitô chỉ chết cho những người được chọn chứ không chết cho mọi người. Giáo hội Công giáo kết án thuyết này là lạc giáo. Thuyết này bị những người cải cách trong giới giáo sĩ, tu sĩ và học giả Công giáo Âu châu Tây phương phản đối, và bị kết án là tà thuyết. Bị ảnh hưởng các tác phẩm của thánh Augustinô, nhất là sự tấn công của thánh Augustinô đối với thuyết Pelagianism (phủ nhận tội tổ tông) và thuyết ý chí tự do, Jansen theo thuyết của thánh Augustinô về sự tiền định và sự cần thiết của Ơn Chúa, một lập trường bị Công giáo La Mã coi là gần với thuyết của Calvin, đã cấm lưu hành cuốn The Augustinus của ông năm 1642. Sau khi Jansen chết năm 1638, những người theo ông đã lập cơ sở tại tu viện ở Port-Royal, Pháp. Blaise Pascal, một đệ tử trung thành của Jansen, đã bảo vệ các giáo huấn của họ trong Provincial Letters (1656–1657). Năm 1709, vua Louis XIV ra lệnh bãi bỏ tu viện này. Những người theo Jansen bắt đầu lập Giáo hội Jansen năm 1723 và tồn tại tới cuối thế kỷ 20.