Cyprien Theophile Brugidou
sinh 04 /10/ 1887, tại Cransac, Giáo Phận Rodez, hạt Aveyron. Cha của ngài, một
doanh nghiệp khai thác mỏ, định cư tại giáo xứ Gua láng giềng của Cransac. Gia
đình có bốn người con, Cyprian là người con trai thứ hai, Ngài và anh trai trở
thành linh mục. Sau khi học tiểu học tại Gua, ngài tiếp tục học trung học tại
tiểu chủng viện Thánh Phêrô-sous-Rodez. Mặc dù thể chất yếu đuối nhưng ngài là
một học viên giỏi.
Năm 1905, ngài vào đại chủng
viện Rodez, sau đó gia nhập vào quân đội trong một năm.
Ngày 3 tháng 10 năm 1906, ngài
gia nhập MEP, nhưng lại bị gọi vào quân đội từ tháng 1 năm 1907 đến tháng 8 năm
1908. Cắt tóc ngày 2O / 9 / 1908, các chức nhỏ ngày 26 / 9 /1909, phụ phó tế ngày 11 /3 /
1911, phó tế ngày 01 / 4 / 1911. Ngài được thụ phong linh mục ngày 29 / 9/
1912, và nhận được sứ vụ của mình tại Giáo phận Tây Đàng Trong (Sài Gòn) .
Vì sức khỏe yếu, ngài đã hoãn cuộc khởi hành
của mình. Trong thời gian này Cha Brugidou, cùng với anh trai mình, đến Học Viện
Công Giáo Toulouse và hoàn thành bằng cử nhân thần học.
Cuối cùng vào ngày 14 / 5 /
1913, ngài xuống tàu tại Marseilles .
Đến Sài Gòn, Cha Brugidou được gửi đến Chợ Đũi, một giáo xứ lớn ở ngoại ô thành
phố, sau đó đến giáo xứ Cái Mơn, tại đây ngài học thêm tiếng Việt và tìm hiểu cách quản trị giáo xứ.
Năm 1914, ngài được bổ nhiệm làm chính xứ Tây-Ninh.
Vào năm 1919, Cha được bổ
nhiệm làm chính xứ Bến Tre, sau đó vào năm 1921, chính xứ của Thủ Dầu Một. Bằng
xe bò, Cha tới thăm các tín hữu giáo xứ rải rác bao la của Cha toàn tỉnh.
Năm 1930, Ngài được gửi đến
Phan Thiết, một cảng cá lớn, với một ngàn Kitô hữu. Ngài đã cho thấy mình là
một thừa sai truyền giáo có năng lực. Ngài đi thăm viếng, chăm sóc tất cả giáo
dân của mình nhờ vào một chiếc Citroën 5 CV.
Vào tháng Ba năm 1945, bị vu
oan cáo buộc gởi tín hiệu cho một số tàu ngầm Mỹ ( Quân đội Đồng minh ) từ nhà
xứ của mình, ngài đã bị cảnh sát Nhật Bản bắt, bị bỏ tù, xích vào nhà tù tỉnh,
cuối cùng ngày 14 Tháng 4 năm 1945, lính Nhật Bản đã giải ngài đến Toà Giám mục
Sài Gòn.
Vào cuối năm 1945, Cha Brugidou
về lại Phan Thiết, ngài đã tìm thấy nhà xứ của mình bị đốt cháy và nhà thờ bị
phá hủy một phần vì mất an ninh trong vùng.Ngài sửa sang một phần của trường.
Năm 1953, một cơn bão đã tàn phá khu vực này,
giết chết nhiều người.Năm 1954, những người di cư từ Bắc vào, hai mươi ngàn
Kitô hữu của Bắc Việt Nam đã được nhóm lại trong khu vực thành các giáo xứ mới,
và thành phố Phan Thiết có khoảng bốn ngàn tín hữu. Ngài quản xứ với sự giúp đỡ
của một cha phó Việt Nam.Trong năm 1957, các
giáo xứ trên địa bàn tỉnh Bình Thuận đã được nhập vào giáo phận Nha
Trang. Cha Brugidou nghĩ đã đến lúc chuyển giao giáo xứ Phan Thiết cho linh mục
khác, Ngài xin giám mục mới của mình một nơi nhỏ : "tuyên úy của cộng đồng
của các nữ tu dòng Đức Bà Truyền Giáo “.
Tháng 3/1960 trong một tai
nạn xe đạp buộc ngài phải nằm một chỗ, và năm sau ngài suy yếu rất nhanh.Ước ao được chết trong giáo xứ của
mình, ngài đã từ chối đề nghị về hưu dưỡng tại Villa Cuénot ở Nha Trang. Vào
buổi sáng ngày 18 /6 / 1962, ngài vấp một đồ nội thất trong phòng của mình và
chân bị sưng to. Vào đêm 26-ngày 27 / 6 / 1962, cha phó Việt Nam cũ của ngài tìm thấy ngài bị
bệnh nặng, và ban cho ngài những nghi thức cuối cùng. Lúc 10:00, ngày 27 / 6 /
1962, M.Brugidou hơi thở cuối cùng. Đám
tang của ngài đã được tổ chức ngày 30 / 6 / 1962, trong sự hiện diện của hai
mươi linh mục và khoảng hai ngàn tín hữu. M.Caillon, linh mục chánh xứ, cử hành
Thánh Lễ an táng, M.Dozance, Bề trên miền, đưa đến nghĩa trang. Xe tang
đi vòng quanh khu vực giáo xứ, trước khi trở về hậu cung của nhà thờ chôn cất.
( Nguồn : Trang Mepasie )
( Nguồn : Trang Mepasie )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét