Cha Victor Caillon sinh ngày
18 tháng bảy 1906, ở Châtelier, ngôi làng của thị xã Campbon, Giáo phận Nantes. Cha từng học tại Tiểu chủng viện Montfortain de Pontchâteau, rồi Tiểu chủng viện Giáo phận Des Couets gần Nantes.
Cha được nhận vào Chủng viện Thừa sai hải ngoại ngày 30 tháng Tám năm 1929. Do sự phản đối của giám mục sở tại không cho chủng sinh ra đi, nên cha Victor Caillon chỉ được vào phố Bac, ngày 23 tháng chín 1929. Được thụ phong linh mục ngày 29 tháng sáu 1932,
cha nhận bài sai đi truyền giáo tại Giáo phận Hà Nội. Cha đến Hà Nội khoảng tháng 10 năm 1932.
Giáo phận Hà Nội (1932-1959)
Cha học tiếng Việt tại giáo xứ nhỏ Cô-Liêu, sát bên cạnh Tiểu chủng viện Hoàng Nguyên. Tháng năm 1933, cha hoàn thiện tiếng Việt và chuẩn bị công tác mục vụ với cha Hébrard, ở Thường Lâm, hơn hai năm. Cha được bổ nhiệm làm cha phó ở nhà thờ Chính Toà trong hơn một năm. Trong thời gian này, ngoài công tác mục vụ, cha còn tham gia vào việc tu bổ lại đàn phong cầm của nhà thờ Chính Toà. Để kiếm nguồn vốn cho công việc này, cha tổ chức một buổi hoà nhạc lớn với sự cộng tác của những nhạc sĩ nổi tiếng của thành phố và sự giúp đỡ của ban quân nhạc của Pháp.
Năm 1936, cha Caillon, phụ trách giáo xứ Đức Mẹ Các Thánh Tử Đạo, thường được gọi là nhà thờ Cửa Bắc. Giáo xứ này nằm đối diện với cửa bắc của Thành Hà nội. Nhiều vị tử đạo đã đi ra cửa này để hiên ngang đến pháp trường trên bờ sông Hồng, chẳng hạn như chân phước Théophane Vénard, Cha Caillon biểu lộ tất cả lòng nhiệt tình của cha tại giáo xứ này cho đến tháng Sáu năm 1949. Dưới sự lãnh đạo của cha, giáo xứ có nhiều đổi mới đáng kể. Trước tiên, cha phục hồi việc tôn kính các Thánh Tử Đạo đã bị lãng quên. Bệnh viện Saint-Paul cũng ở cách đó không xa và thuộc giáo xứ Các Thánh Tử Đạo, cha Caillon thường xuyên đi thăm các bệnh nhân và rửa tội cho trẻ em tại phòng sanh của bệnh viện này khi có sự yêu cầu của cha mẹ chúng.
Năm 1936, cha Caillon, phụ trách giáo xứ Đức Mẹ Các Thánh Tử Đạo, thường được gọi là nhà thờ Cửa Bắc. Giáo xứ này nằm đối diện với cửa bắc của Thành Hà nội. Nhiều vị tử đạo đã đi ra cửa này để hiên ngang đến pháp trường trên bờ sông Hồng, chẳng hạn như chân phước Théophane Vénard, Cha Caillon biểu lộ tất cả lòng nhiệt tình của cha tại giáo xứ này cho đến tháng Sáu năm 1949. Dưới sự lãnh đạo của cha, giáo xứ có nhiều đổi mới đáng kể. Trước tiên, cha phục hồi việc tôn kính các Thánh Tử Đạo đã bị lãng quên. Bệnh viện Saint-Paul cũng ở cách đó không xa và thuộc giáo xứ Các Thánh Tử Đạo, cha Caillon thường xuyên đi thăm các bệnh nhân và rửa tội cho trẻ em tại phòng sanh của bệnh viện này khi có sự yêu cầu của cha mẹ chúng.
Trên vùng đất thuộc giáo xứ có một giáo điểm quan trọng gọi là giáo điểm « Bãi cát”, Nhiều năm trước đó, toà giám mục đã thuê thành phố một khu đất rộng trên bờ sông Hồng để định cư ở đó những giáo dân nghèo đến từ khắp nơi. Giáo điểm đã phát triển và có gần 1.500 người. Cha Caillon tiến hành xây dựng nhà thờ dâng kính thánh Têrêsa cho giáo dân ở đây. Nhà thờ được khánh thành ngày 1 tháng 11 năm 1941.
Sự từ trần của Đức giám mục Chaize, ngày 28 tháng Hai
năm 1949 đã làm thay đổi nhiều điều. Trong khi chờ đợi toà thánh bổ nhiệm một giám mục mới, cha Vuilliard tạm thời lãnh đạo giáo phận, nhưng vì sức khỏe yếu, nên cha giao quyền này lại cho cha Caillon xử lý.
Lúc bấy giờ Toà thánh muốn Giáo phận truyền giáo nên được giao lại cho hàng giáo phẩm Việt Nam
đảm nhiệm. Tân giám mục tông toà, ĐC Trinh Nhu Khuê, được bổ nhiệm ngày 18 tháng hai 1950. Cha Vuilliard đã trở về Pháp và chết không lâu sau khi trở về quê hương. ĐC Khuê được tấn phong ngày 15 tháng tám
1950 và ngay sau đó bổ nhiệm cha Caillon làm cha Tổng đại diện giáo phận.
Cũng trong thời gian này, để đáp ứng với tình hình mới của Hội Thừa sai, cha Caillon được bổ nhiệm làm Bề trên Tổng quyền phụ trách miền Bắc Việt Nam. Ở cương vị này, cha tham gia Đại hội nghị của Hội năm 1950. Cha đã có những đóng góp đáng kể vào những quyết định của Hội nghị.
Không bao lâu sau ngày thụ phong giám mục, Đức Cha Khuê đi thăm châu Âu và cha Caillon trở thành người hướng dẫn Đức cha trong những chuyến đi hành hương khác nhau. Cả hai trở về Hà Nội cuối tháng Mười 1950.
Cha Caillon là người cộng tác đắc lực của Đức cha Khuê trong tình hình mới với nhiều khó khăn của giáo phận Hà Nội vừa được chuyển giao cho hàng giáo phẩm Việt Nam. Đức cha Khuê phân công cho Hội Thừa sai phụ trách địa bàn kém phát triển của giáo phận. Với tư cách là tổng đại diện của Giáo phận, Cha Caillon đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Cũng cần nói thêm cha là linh mục cố vấn tận tuỵ và đầy khả năng cho Đức cha Khuê. Mỗi buổi sáng, cha đều có cuộc gặp gỡ với Đức cha để xem xét những vấn đề của Giáo phận. Cha rất dè dặt về tất cả những vấn đề của Giáo phận không liên quan trực tiếp đến các cha thừa sai. Cha còn làm cố vấn bên cạnh các đan sĩ dòng Cát Minh và các Nữ tu dòng Saint-Paul de
Chartres.
Sau hiệp định Genève, cha Caillon vẫn còn ở lại Hà Nội 5 năm và đến cuối tháng Mười Một 1959, Nhà Nước buộc cha phải về Pháp.
Sau hiệp định Genève, cha Caillon vẫn còn ở lại Hà Nội 5 năm và đến cuối tháng Mười Một 1959, Nhà Nước buộc cha phải về Pháp.
Giáo phận Nha Trang (1960-1975)
Qua lời yêu cầu của Đức cha Piquet, Giám mục Tông toà Nha Trang, cha Caillon đến phục vụ cho giáo phận này ngày 20 tháng Chín 1960. Ngày 9 tháng Giêng 1961, cha được bổ nhiệm làm cha sở Phan Thiết, vị trí mà cha phụ trách cho đến tháng Bảy 1968. Trong thời gian phục
vụ tại gx PT, Ngài đã xây dựng nhà xứ. Nhà xứ này vẫn được sử dụng cho đến ngày
nay và vừa được sơn lại
Vào thời gian này, việc đi đứng của cha trở nên rất khó khăn. Cha phải về Pháp để giải phẫu hai đầu gối. Sau cuộc giải phẫu thành công, cha trở lại Nha Trang vào tháng Mười 1970. Cha được giao phụ trách cha sở họ Hoà Tân. Cha ở đó cho đến ngày 28 tháng Chín 1975,
ngày cha rời khỏi Việt Nam lần thứ hai.
Trở về nước Pháp (1975-1983)
Ngày 22 tháng Tư 1976, cha được bổ nhiệm làm cha tuyên uý của các nữ tu Đa Minh ở Amillis, không xa
Coulommiers. Đó là nhà nghỉ dưỡng dành cho những người già hoặc ốm đau bệnh tật. Công việc mục vụ này rất thich hợp với cha. Không bao lâu sau đó, theo lời yêu cầu của bà Bề trên Tổng quyền của Dòng Tiểu Muội của Người nghèo, cha Caillon rời khỏi Amillis để đến sống tại Tour Saint-Joseph, Nhà mẹ của Dòng Tiểu Muội của những Người nghèo, không xa gia đình cha ở Loire-Atlantique bao nhiêu.
Ngày 7 tháng Mười Hai 1978, do tình trạng đôi chân đau yếu, cha quyết định rời khỏi chức vụ và đến nghỉ dưỡng luôn tại Montbeton.
Tại nhà nghỉ dưỡng này, cha cố gắng đi bộ trong công viên để chống lại bệnh tật. Cha còn đọc sách cho những người mù, giải tội cho một số giáo dân sống gần nhà nghỉ dưỡng.
Tại nhà nghỉ dưỡng này, cha cố gắng đi bộ trong công viên để chống lại bệnh tật. Cha còn đọc sách cho những người mù, giải tội cho một số giáo dân sống gần nhà nghỉ dưỡng.
Với tuổi già sức yếu, cha càng ngày càng đi đứng khó khăn. Hơn nữa, trái tim của cha đã suy yếu từ lâu cũng gây thêm nhiều rắc rối. Cha phải dùng pin để trợ tim hoạt động. Toàn bộ hệ thống tiết niệu của cha cũng càng ngày càng bị bế tắc. Mặc dù được chăm sóc đặc biệt, bệnh tình của cha cũng không được cải thiện. Các bác sĩ đành phải cho đưa cha về Montbeton để cha có thể ra đi giữa các cha bạn đồng nghiệp.
Cha từ trần ngày 15 tháng Tư năm 1983, vào buổi sáng. Thánh lễ an táng diễn ra ngày 18 tháng Tư, rất đông bà con của cha từ Loire-Atlantique đến chung lời cầu nguyện cùng với các bạn đồng nghiệp của cha. Trong thánh lễ an táng, cha Pierre Gauthier, cha bạn gần gũi của cha ở địa phận Nha Trang, đã đọc điếu văn ca ngợi công đức của cha. Thi hài cha được an táng tại nghĩa trang Montbeton nơi an nghỉ của nhiều đồng nghiệp của cha ở giáo phận Hà Nội. Một Thánh lễ cầu nguyện cho cha cũng được tổ chức tại nhà thờ Chính Toà Hà Nội sau đó.
Cha từ trần ngày 15 tháng Tư năm 1983, vào buổi sáng. Thánh lễ an táng diễn ra ngày 18 tháng Tư, rất đông bà con của cha từ Loire-Atlantique đến chung lời cầu nguyện cùng với các bạn đồng nghiệp của cha. Trong thánh lễ an táng, cha Pierre Gauthier, cha bạn gần gũi của cha ở địa phận Nha Trang, đã đọc điếu văn ca ngợi công đức của cha. Thi hài cha được an táng tại nghĩa trang Montbeton nơi an nghỉ của nhiều đồng nghiệp của cha ở giáo phận Hà Nội. Một Thánh lễ cầu nguyện cho cha cũng được tổ chức tại nhà thờ Chính Toà Hà Nội sau đó.
Cha Caillon luôn luôn là người của nhiệm vụ, một linh mục nhiệt tình, nhưng đồng thời cũng thận trọng trong các sáng kiến riêng. Giống như Kinh Thánh nói, cha biết “ngồi” để cầu nguyện và suy nghĩ trước khi hành động. Ngoài ra, tính khí của cha có hơi rụt rè. Được thôi thúc bởi lòng nhiệt tình, có khi cha phản ứng nhanh và có những nhận xét không phải lúc nào cũng dễ chịu. Chúng ta không thể nói cha bị ảnh hưởng bởi uy quyền, nhưng cha biết làm cho mọi người tôn trọng nó và đôi khi với một cách hơi cứng rắn. Cha làm mọi cách để tự chế ngự mình, nhưng đôi khi sự thành công đã không đáp ứng lại những cố gắng của cha.
Trong gần một năm, cha đã điều hành Giáo phận Hà Nội một cách khôn ngoan và thận trọng. Từ năm 1950, cha là một trong số những cố vấn của Đức Cha Khuê. Việc ra đi của cha chắc chắn đã để lại một khoảng trống lớn lao và gây không ít khó khăn sâu sắc cho vị tân giám mục và tất cả các linh mục Việt nam từng yêu mến cha rất nhiều.
Toàn bộ hoạt động của cha Caillon được linh hứng bởi cuộc sống cầu nguyện thường xuyên và sâu sắc, nhưng không phô trương.
Những đặc tính trên đã giúp cha thực hiện tốt ơn gọi linh mục và truyền giáo của cha và trở thành con người không thể thiếu trong nhiều hoàn cảnh đặc biệt, vì phần rỗi của mọi người trong các giáo phận truyền giáo.
Tác giả
bài viết: Nguyễn Kim Ngân chuyển ngữ
Nguồn :
gpnhatrang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét